Cơ Sở Lý Luận Về Quản Lý Hoạt Động Giáo Dục Bản Sắc Vhdt Khmer Cho Hs Ở Các Trường Ptdtnt.


7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn

Nhóm phương pháp này nhằm thu thập thông tin thực tiễn để xây dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Chủ yếu điều tra bằng phiếu hỏi: Dùng phiếu hỏi để điều tra thực trạng quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục bản sắc VHDT Khmer cho HS ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.

7.3. Nhóm phương pháp thống kê toán học

Sử dụng phương pháp thống kê toán học để thu thập, xử lí và phân tích các số liệu nghiên cứu thông qua các số liệu thống kê.

8. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 03 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động giáo dục bản sắc VHDT Khmer cho HS ở các trường PTDTNT.

Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động giáo dục bản sắc VHDT Khmer cho HS ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.

Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục bản sắc VHDT Khmer cho HS ở các trường PTDTNT tỉnh Sóc Trăng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.


Chương 1‌

Quản lý hoạt động giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc khmer cho học sinh ở các trường phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Sóc Trăng - 3

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC KHMER CHO HỌC SINH Ở CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ


1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề‌

Giáo dục bản sắc VHDT là một trong những vấn đề được Bộ GD&ĐT, các địa phương chỉ đạo, đôn đốc các ngành chuyên môn và các cơ sở giáo dục triển khai thực hiện. Thông qua các hoạt động, bảo đảm tính giáo dục về tư tưởng chính trị, đạo đức, văn hóa, lối sống, tuyên truyền về chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; gắn mục tiêu giáo dục bản sắc VHDT với hỗ trợ các hoạt động, các môn học; xây dựng môi trường văn hóa, giáo dục toàn diện cho HS.

Một trong năm nội dung chính của Phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” do Bộ GD&ĐT phát động từ năm 2008 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2008) là giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Ngành GD&ĐT đã chủ động, phối hợp tích cực với ngành Văn hóa ở các địa phương để triển khai, thực hiện nội dung này với nhiều hình thức phong phú và bước đầu đã có kết quả.

Bên cạnh đó còn có mốt số công trình nghiên cứu khác viết về di sản văn hóa người Khmer của cả khu vực Nam bộ chẳng hạn: Phân viên nghiên cứu văn hóa – nghệ thuật tại Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với nhà xuất bản tổng hợp Hậu Giang với “Tìm hiểu vốn văn hóa dân gian Khmer Nam bộ” xuất bản năm 1988; hay Trương Lưu - Chủ biên cuốn sách gồm nhiều tác giả viết về: “Văn hóa người Khmer vùng Đồng bằng Sông Cửu Long” do nhà xuất bản văn hóa dân tộc phát hành năm 1993 (Trương Lưu, 1993).

Năm 2002, tác giả Vũ Đình Mười đã đề cập đến vấn đề GD truyền thống của người Khmer xã Lương Hòa - Châu Thành - Trà Vinh qua nghiên cứu “GD truyền thống của người Khmer (nghiên cứu ở xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh)”, đồng thời tác giả khẳng định, nghiên cứu GD truyền thống sẽ góp phần tìm


hiểu về văn hóa tộc người, xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách, xây dựng phương pháp GD phù hợp cho đồng bào.

Năm 2004, tác giả Phan Xuân Biên đã đề cập đến “Vấn đề dân trí và phát triển văn hóa ở vùng người Khmer Nam Bộ trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, tác giả khẳng định: “GD phải đi cùng với phát triển văn hóa. Bảo tồn và phát huy những tinh hoa VHDT được coi là giải pháp hàng đầu trong việc ứng xử với người Khmer trong tiến trình xây dựng đời sống văn hóa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Phan Xuân Biên, 2004).

Năm 2013, trong công trình nghiên cứu của mình “Nét văn hóa của người Khmer Nam Bộ”, tác giả Nguyễn Thành Luân đã giới thiệu văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể của người Khmer ở Nam Bộ.

Năm 2017, tác giả Sơn Lương – Phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Sóc Trăng đã đề cập đến “Phong tục – Lễ hội của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng”, nhằm góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong phong tục – lễ hội tạo ra sản phẩm du lịch đặc thù trong hoạt động phát triển du lịch của địa phương và từ đó có thể giới thiệu văn hóa Khmer đến người trong nước cũng như bạn bè quốc tế.

Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên cứu cũng chỉ đề cập hay phản ánh nhiều khía cạnh khác nhau đến những nét văn hóa truyền thống của các dân tộc, việc bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của các dân tộc anh em, cũng như về chủ đề người Khmer, dân tộc Khmer và văn hóa Khmer. Tuy nhiên, chưa có những công trình nghiên cứu giáo dục bản sắc VHDT Khmer cho HS. Đặc biệt, chưa có một đề tài nào nghiên cứu nào về quản lý hoạt động GD bản sắc VHDT Khmer cho HS ở các trường DTNT tỉnh Sóc Trăng.

1.2. Các Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài‌

1.2.1. Quản lý‌

- Khái niệm quản lý

Trong khoa học quản lý, khái niệm “quản lý” được coi là một trong những khái niệm công cụ đặc biệt quan trọng. Vì thế, các nhà khoa học quản lý đã đưa ra nhiều khái niệm về quản lý. Tùy theo cách tiếp cận, quản lý được hiểu với nhiều cách khác nhau như sau:


Theo Fayol: “Quản lý là một hoạt động mà mọi tổ chức đều có, nó gồm năm yếu tố tạo thành là: kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, điều chỉnh và kiểm soát. Quản lý chính là thực hiện kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo điều chỉnh và kiểm soát ấy” (Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2012).

Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng, chính xác cái gì cần làm và làm cái đó như thế nào, bằng phương pháp tốt nhất, rẻ nhất (William - Tay Lor) (Nguyễn Duy Quý

- Chủ biên, 2006).

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì: “Quản lý bao gồm: Quản có nghĩa là duy trì ổn định, lý là làm cho phát triển. Vậy quản lý là làm cho ổn định và phát triển” (Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 4, 2005).

Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý), trong tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” (Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2003). Cũng theo đó các tác giả còn phân định rõ hơn về hoạt động quản lý: “Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch hóa, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra” (Nguyễn Quốc Chí, Nguyễn Thị Mỹ Lộc, 2010).

Theo Phạm Viết Vượng: “Quản lý là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm chỉ huy, điều hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và phù hợp với quy luật khách quan” (Phạm Viết Vượng - Chủ biên, 2003).

Các tác giả Bùi Minh Hiền, Vũ Ngọc Hải, Đặng Quốc Bảo cho rằng “Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra” (Bùi Minh Hiền - Chủ biên, 2006).

Tóm lại: Quản lý là quá trình tác động có tổ chức, có mục đích của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức, thông qua công cụ và phương pháp quản lý nhằm làm cho tổ chức đó vận hành thuận lợi và đạt được mục tiêu đề ra.


Các khái niệm trên về “quản lý” được trình bày khác nhau về ngôn từ, cách diễn đạt song chúng có những đặc điểm chủ yếu sau: Hoạt động quản lý là những tác động có tính hướng đích (sự tác động có tổ chức, có mục đích...) của chủ thể quản lý lên khách thể quản lý bằng các chế định xã hội, bằng tổ chức nguồn nhân lực, tài lực và vật lực, phẩm chất, uy tín của cơ quan quản lý hoặc người quản lý nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các tiềm năng, các cơ hội của tổ chức để đạt được mục đích trong điều kiện môi trường luôn biến động; Hoạt động quản lý được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội; Hoạt động quản lý phải phù hợp với quy luật khách quan; Hoạt động quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm thực hiện mục tiêu của tổ chức.

- Chức năng quản lý

Quản lý là một quá trình mà chủ thể quản lý tác động đến khách thể quản lý trong một tổ chức bằng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo kiểm tra đánh giá, dựa trên những nguồn lực và những điều kiện có thể nhằm đạt được mục đích của tổ chức.

Theo tác giả Đặng Quốc Bảo thì quản lý có 4 chức năng: “Kế hoạch hóa - Tổ chức - Chỉ đạo - Kiểm tra” (Đặng Quốc Bảo, 2004). Có thể khái quát 4 chức năng như sau:

Kế hoạch hóa là quá trình xác định mục tiêu và quyết định những biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu. Thực chất của kế hoạch hóa là đưa toàn bộ những hoạt động vào công tác kế hoạch với mục tiêu, biện pháp, bước đi cụ thể và ấn định tường minh các nguồn lực, điều kiện để thực hiện mục tiêu.

Tổ chức là sắp xếp, sắp đặt một cách khoa học những yếu tố, những con người, những hoạt động thành một hệ toàn vẹn nhằm đảm bảo cho chúng tương tác với nhau một cách hợp lý.

Chỉ đạo là chỉ dẫn, động viên, điều chỉnh và phối hợp các lực lượng để thực hiện kế hoạch đã đề ra.

Kiểm tra là chức năng dùng để kiểm tra trạng thái của hệ thống, kiểm tra kết quả thực hiện kế hoạch so với mục tiêu đề ra, kiểm tra còn nhằm phát hiện sai sót để kịp thời uốn nắn, sửa chữa trong quá trình thực hiện kế hoạch.

Thông tin được coi là sợi dây liên kết cả 4 chức năng của quản lý.


1.2.2. Bản sắc văn hóa dân tộc Khmer‌

- Văn hóa dân tộc Khmer

+ Văn hóa

Bất kỳ một quốc gia, dân tộc nào cũng đều có một nền văn hóa riêng, nó ra đời và phát triển gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của dân tộc.

Trong nghiên cứu về văn hóa nhiều học giả cho rằng văn hóa (hiểu theo nghĩa rộng) nói chung bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần. Theo nghĩa rộng nhất của nó, văn hóa bao gồm những sáng tạo về vật chất và tinh thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những tri thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của văn hóa. Văn hóa không tự hạn chế vào một số biểu hiện của đời sống tinh thần. Nó là toàn bộ cuộc sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng người. Như vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả những gì không phải là thiên nhiên đều là văn hóa.

Văn hóa tinh thần cũng được hiểu theo hai nghĩa cơ bản rộng và hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị, những hoạt động tinh thần của con người. E.B. Taylor cho rằng “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội” (Trần Ngọc Thêm, 1997). Tiêu biểu cho cách hiểu này là A.K Vlêđốp: “Việc coi văn hóa tinh thần chỉ là tổng hợp những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần như là sự hoạt động sáng tạo tích cực của con người, như là sự sản xuất cất giữ và sử dụng những giá trị tinh thần” (Trần Ngọc Thêm, 1997).

Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn tinh thần, những giá trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu biểu cho cách hiểu này là khái niệm văn hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu thành nên một hệ thống các


giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” (Thành Lê, 2001).

Văn hóa là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do con người, loài người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong suốt quá trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên và văn hóa là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói văn hóa là sự hóa thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nó xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã hội, văn minh quốc gia, văn minh nhân loại.

+ Dân tộc Khmer

Đồng bào Khmer là dân tộc thiểu số, chiếm một tỉ lệ khá lớn. Dân tộc Khmer ở Việt Nam có khoảng 1,3 triệu người, sống tập trung ở tại các tỉnh Nam Bộ như Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long...

Cuộc sống của người Khmer gắn liền với nghề canh tác lúa nước và nhiều nghề thủ công. Dân tộc Khmer có cả một kho tàng phong phú về truyện cổ và có kiến trúc chùa tháp đặc sắc. Các lễ hội lớn trong năm là dịp để đồng bào Khmer Nam bộ thể hiện những nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của dân tộc mình. Tiếng nói của dân tộc Khmer thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khmer. Tuy sống cùng trên một địa bàn với các dân tộc Kinh, Hoa từ rất lâu nhưng hình thái cư trú của người Khmer vẫn giữ được đặc điểm riêng của mình, phổ biến là hình thái cư trú theo cộng đồng người với tên gọi là “phum” và “sóc”. Người Khmer sinh sống bằng nhiều nghề trong đó có đánh cá, dệt, chiếu, đan lát, dệt vải, làm đường thốt nốt và làm gốm.

Đời sống văn hóa tinh thần của đồng bào Khmer Nam Bộ rất phong phú. Trong hệ thống lễ hội của đồng bào Khmer Nam Bộ, có nhiều lễ hội đặc sắc nhưng phải kể đến các lễ lớn trong năm là Tết Chôl Chnăm Thmây và Lễ hội Ook Om Bok,... Người Khmer Nam Bộ hầu hết đều theo tín ngưỡng Phật giáo, hệ phái Nam Tông. Di sản đặc sắc nhất của văn hoá Khmer cũng chính là nghệ thuật và kiến trúc chùa tháp. Người Khmer lớn lên được tu dưỡng trong tinh thần Phật pháp, học giáo


lý Phật và học văn hoá tại chùa trước khi bước vào cuộc sống tự lập của người trưởng thành.

Trong suốt quá trình phát triển, nền văn hóa Khmer giao hòa, gắn kết với các nền văn hóa khác ở đồng bằng sông Cửu Long. Điều này góp phần tạo thành nền văn hóa của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam đậm đà bản sắc.

- Bản sắc văn hóa dân tộc Khmer

+ Văn hóa Khmer đã duy trì những yếu tố văn hóa chung tiêu biểu cho nền văn hóa bản địa ở khu vực lục địa Đông Nam Á. Đó là nền văn hóa của cư dân nông nghiệp, canh tác lúa nước cổ truyền.

Như trên đã phân tích, người Khmer là cư dân lâu đời, có mặt từ rất sớm trên vùng đất đồng bằng Nam Bộ. Do điều kiện sinh sống đồng bằng và tập quán sản xuất đã hình thành ở đây nền văn minh lúa nước. Từ những kinh nghiệm về thủy lợi, đến việc chế tạo các công cụ lao động để sản xuất, việc thờ cúng các vị thần… đã làm cho người Khmer bản địa có một nền văn hóa được định hình và tương đối phát triển. Tuy hiện nay, nền văn hóa Khmer đã bị Phật giáo hóa cao độ, nhưng bên dưới lớp văn hóa Phật giáo đó vẫn còn tiềm ẩn những nghi lễ mang nặng màu sắc dân gian. Đặc trưng nổi bật của nền văn hóa cư dân nông nghiệp canh tác lúa nước là tính chất chậm tiến, bảo thủ và trì trệ, mang nặng bản chất thần thoại và huyền bí.

+ Văn hóa Khmer Nam Bộ chịu ảnh hưởng một cách tự nguyện và sâu sắc văn hóa Ấn Độ. Nói cách khác, văn hóa Khmer là một nền văn hóa có tính chất vừa bản địa, vừa Ấn Độ. Nhưng sự kết hợp đó đã được chọn lọc cho phù hợp với nền văn hóa bản địa và đều được Khmer hóa.

Các tài liệu lịch sử cho thấy, văn hóa Ấn Độ thâm nhập vào vùng đất Khmer Nam Bộ, chủ yếu là Phật giáo và Bà La Môn giáo. Nó được người Khmer tiếp nhận, lưu giữ và phát triển, làm cho văn hóa Phù Nam xưa mang đậm màu sắc tín ngưỡng tôn giáo. Những người theo đạo Bà La Môn phần lớn là những người trong hoàng tộc, quan lại. Họ thờ thần Siva, Visnu, Harihara. Đa số những người theo Phật giáo là dân thường. Đại bộ phận theo tín ngưỡng Arak, Neakta, Têvada, kru. Thờ cúng người đã khuất theo truyền thống xa xưa của họ. Đến thế kỷ thứ XIII, Phật giáo Tiểu thừa du nhập từ trước đã nhanh chóng trở thành tôn giáo chủ đạo của cộng

Xem tất cả 149 trang.

Ngày đăng: 04/07/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí