việc” hay quản lý là: “Trông coi, giữ gìn, theo dõi việc gì: quản lý lý lịch, quản lý vật tư” [31].
- Theo C.Mác: "Bất cứ lao động hay lao động chung nào mà tiến hành trên một quy mô khá lớn, đều yêu cầu phải có một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân... Một nhạc sĩ độc tấu thì điều khiển lấy mình nhưng một giàn nhạc thì phải có nhạc trưởng" [6].
- F.W.Taylor (Mỹ, 1856-1915) được đánh giá là "Cha đẻ của thuyết quản lý khoa học" đã đưa ra định nghĩa: "Quản lý là biết chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau đó khiến được họ hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất" [23].
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Quang: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý đến tập thể những người lao động khách thể quản lý nhằm thực hiện được những mục tiêu dự kiến” [21, tr.123].
Theo tác giả Nguyễn Thị Tính “Quản lý là sự tác động có định hướng có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý trong tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt được mục tiêu đã đề ra. Hay nói cách khác: Quản lý lŕ quá trěnh đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng việc thực hiện các chức năng quản lý, lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra” [24, tr.2,3].
Tóm lại, có nhiều khái niệm, cách định nghĩa khác nhau về quản lý, song có thể hiểu: Quản lý là quá trình tác động có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm làm cho hệ quản lý vận động phù hợp với quy luật khách quan.
Do đó, quản lý là một hoạt động của chủ thể quản lý nhằm thiết kế và tạo ra môi trường mà ở đó mọi tổ chức và cá nhân có liên quan trong hoạt động lao động của xã hội nhất định để đạt được mục tiêu, dự kiến trong những điều kiện, phương tiện và các hoạt động khác của xã hội. Quản lý có tầm quan trọng đặc biệt đó là tính hiệu quả tối ưu trong các hoạt động. Chất lượng phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động, nghiên cứu của mỗi người. Chất lượng quản lý được đánh
giá ở chỗ cùng mục tiêu và kết quả người quản lý giỏi sẽ đưa tập thể đạt đến nhanh hơn, ít tốn kém hơn và thoả mãn yêu cầu đặt ra cho công tác quản lý.
Quản lý một đơn vị (cơ sở sản xuất, cơ quan, trường học…) với tư cách là một hệ thống xã hội cần có cả một khoa học và nghệ thuật để tác động vào hệ thống, vào từng thành tố của hệ thống bằng các phương pháp thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu đề ra trong quá trình hoạt động.
1.2.2. Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã, hay cấp cơ sở)
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang theo định hướng phát triển nguồn nhân lực - 1
- Quản lý hoạt động bồi dưỡng lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở Đảng bộ thành phố Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang theo định hướng phát triển nguồn nhân lực - 2
- Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Lý Luận Chính Trị
- Phương Pháp Bồi Dưỡng Và Hình Thức Bồi Dưỡng Lý Luận Chính Trị Cho Đội Ngũ Cán Bộ Chủ Chốt Cấp Cơ Sở
- Những Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Quản Lý Hoạt Động Bồi Dưỡng Llct Cho Cán Bộ Chủ Chốt Cấp Cơ Sở Theo Định Hướng Phát Triển Nguồn Nhân Lực
Xem toàn bộ 116 trang tài liệu này.
Hiện nay đang có nhiều quan niệm khác nhau về CBCC. Để nhận thức đầy đủ và đúng đắn vấn đề này, cần làm rõ một số khái niệm sau đây:
- Thứ nhất, khái niệm "cán bộ"
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thì: "Cán bộ: 1. Người làm việc trong cơ quan nhà nước - cán bộ nhà nước. 2. Người giữ chức vụ, phân biệt với người bình thường, không giữ chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước" [31]. Theo Điều 1 của Pháp lệnh Công chức do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 9/3/1998: "Cán bộ, công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách" [22].
Từ những định nghĩa nêu trên, có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm dùng để chỉ những người ở trong cơ cấu của một tổ chức nhất định, có trọng trách hoàn thành nhiệm vụ theo chức năng được tổ chức đó phân công.
Như vậy, có nhiều quan niệm về cán bộ, nhưng tựu trung lại, có hai cách hiểu cơ bản:
Một là, cán bộ bao gồm những người trong biên chế nhà nước, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể chính trị xã hội, các doanh nghiệp nhà nước và các lực lượng vũ trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.
Hai là, cán bộ là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hay một tổ chức để phân biệt với người không có chức vụ.
Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên cho thấy, người cán bộ có bốn đặc trưng cơ bản:
+ Cán bộ được sự ủy nhiệm của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong HTCT... lấy danh nghĩa của các tổ chức đó để hoạt động.
+ Cán bộ giữ một chức vụ, một trọng trách nào đó trong một tổ chức của HTCT.
+ Cán bộ phải thông qua tuyển chọn hay phân công công tác sau khi hoàn thành chương trình đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề; cán bộ được bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
+ Cán bộ được hưởng lương và chính sách đãi ngộ căn cứ vào nội dung, chất lượng hoạt động và thời gian công tác của họ.
Như vậy, hiểu theo nghĩa chung nhất, cán bộ là người lãnh đạo, quản lý hoặc người làm chuyên môn, nhà khoa học hay công chức, viên chức làm việc, hưởng lương từ ngân sách nhà nước hoặc từ các nguồn khác. Họ được hình thành từ tuyển dụng, phân công công tác sau khi tốt nghiệp ra trường, từ bổ nhiệm, đề bạt hoặc bầu cử.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra định nghĩa về cán bộ hết sức khái quát, giản dị và dễ hiểu. Theo Người: "Cán bộ là người đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đồng thời đem tình hình dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho đúng" [18].
- Thứ hai, khái niệm "chủ chốt"
Theo Đại từ điển tiếng Việt, từ "chủ chốt" là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt. Cán bộ chủ chốt của phong trào" [31].
- Thứ ba, khái niệm "cán bộ chủ chốt"
Từ những nội dung trình bày nêu trên, có thể hiểu "cán bộ chủ chốt" là người có chức vụ, nắm giữ các vị trí quan trọng, làm nòng cốt trong các tổ chức thuộc hệ thống bộ máy của một cấp nhất định; người được giao đảm đương các nhiệm vụ quan trọng để lãnh đạo, quản lý, điều hành bộ máy thực hiện chức
năng, nhiệm vụ được giao; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao.
Cán bộ chủ chốt có những đặc trưng cơ bản như sau:
+ Cán bộ chủ chốt là người có vị trí quan trọng, giữ vai trò quyết định trong việc xác định phương hướng, mục tiêu, phương pháp công tác; đề ra các quyết định và tổ chức thực hiện tốt các quyết định của cấp mình hoặc cấp trên giao. Kiểm tra, giám sát, kịp thời chấn chỉnh, uốn nắn những biểu hiện lệch lạc; bổ sung, điều chỉnh kịp thời những giải pháp mới khi cần thiết; đúc rút kinh nghiệm, tổng kết thực tiễn để bổ sung, hoàn chỉnh lý luận. Đồng thời, CBCC còn là người giữ vai trò đoàn kết, tập hợp, phát huy sức mạnh của quần chúng thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và xây dựng nội bộ tổ chức vững mạnh.
+ Cán bộ chủ chốt là những người đại diện một tổ chức, một tập thể... chủ yếu do bổ nhiệm hoặc bầu cử, giữ một chức vụ trọng yếu trong cơ quan Đảng, chính quyền (cấp trưởng, cấp phó); trưởng các đoàn thể và là những người chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về mọi hoạt động của địa phương, đơn vị hoặc lĩnh vực công tác được đảm nhận.
Vậy cán bộ chủ chốt là gì? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: Cán bộ là gốc của mọi công việc. Trong đội ngũ cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt là gốc của cái gốc đó, là lực lượng nòng cốt, là nhân tố quan trọng nhất trong bộ máy tổ chức Đảng và Nhà nước. Cán bộ chủ chốt cơ sở, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cán bộ chủ chốt cơ sở hoặc cấp cơ sở) là những người đứng đầu, phụ trách một đơn vị, một tổ chức, một tập thể nào đó do bầu cử, bổ nhiệm hay chỉ định ở cấp cơ sở. Hoạt động lãnh đạo của người cán bộ chủ chốt cấp cơ sở đòi hỏi phải ra được những văn bản, quyết định đúng đắn nhằm chỉ đạo kịp thời các lĩnh vực phát triển theo đúng đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với cơ sở, đơn vị. Điều đó đòi hỏi ở người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở, một mặt phải nắm chắc, hiểu sâu sắc đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; mặt khác, phải tường tận tình hình thực tế của cơ sở, đơn vị về mọi mặt và xu hướng
vận động của tình hình đó. Đồng thời, họ còn phải biết huy động sức mạnh trí tuệ của tập thể, của quần chúng. Đó chính là những điều kiện để người lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở xây dựng được các quyết định, các chương trình, kế hoạch vừa phù hợp với thực tiễn ở cơ sở vừa là sự cụ thể hóa sinh động, sáng tạo chủ trương đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước và Nghị quyết của cấp uỷ cấp trên [18].
1.2.3. Phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Theo Liên Hợp quốc thì “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát triển của mỗi cá nhân và của đất nước” [dẫn theo 4]. Ngân hàng thế giới cho rằng: nguồn nhân lực là toàn bộ vốn con người bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp… của mỗi cá nhân.
Như vậy, ở đây nguồn lực con người được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên. Theo Tổ chức Lao động quốc tế, nguồn nhân lực của một quốc gia là toàn bộ những người trong độ tuổi có khả năng tham gia lao động, nhân lực được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn bộ dân cư có thể phát triển bình thường. Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự phát triển kinh tế
- xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động vào quá trình lao động.
Dưới góc độ kinh tế phát triển: nguồn nhân lực là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động. Nguồn nhân lực được biểu hiện trên hai mặt: về số lượng đó là tổng số những người trong độ tuổi lao động làm
việc theo quy định của nhà nước và thời gian lao động có thể huy động được từ họ; về chất lượng, đó là sức khoẻ và trình độ chuyên môn, kiến thức và trình độ lành nghề của người lao động. Nguồn lao động là tổng số những người trong độ tuổi lao động quy định đang tham gia lao động hoặc đang tích cực tìm kiếm việc làm. Nguồn lao động cũng được hiểu trên hai mặt: số lượng và chất lượng. Như vậy, theo khái niệm này, có một số được tính là nguồn nhân lực nhưng lại không phải là nguồn lao động, đó là: những người không có việc làm nhưng không tích cực tìm kiếm việc làm, tức là những người không có nhu cầu tìm việc làm, những người trong độ tuổi lao động quy định nhưng đang đi học…
Tiếp cận dưới góc độ kinh tế chính trị, có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử, được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu hiện tại và tương lai của đất nước.
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực. Chăm lo đầy đủ đến con người là yếu tố bảo đảm chắc chắn nhất cho sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở nền tảng cho sự phát triển bền vững.
Cho đến nay, do xuất phát từ các cách tiếp cận khác nhau, nên vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực.
Theo quan niệm của Liên Hợp quốc, phát triển nguồn nhân lực bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. Có quan điểm cho rằng: phát triển nguồn nhân lực là gia tăng giá trị cho con người, cả giá trị vật chất và tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động có những năng lực và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng
được những yêu cầu to lớn và ngày càng tăng của sự phát triển kinh tế - xã hội. Một số tác giả khác lại quan niệm: phát triển là quá trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt: thể lực, trí lực, tâm lực, đồng thời phân bổ, sử dụng, khai thác và phát huy hiệu quả nhất nguồn nhân lực thông qua hệ thống phân công lao động và giải quyết việc làm để phát triển kinh tế - xã hội.
Từ những luận điểm trình bày trên có thể hiểu: phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực trên các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Nói một cách khái quát nhất, phát triển nguồn nhân lực chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện con người vì sự tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện bản thân mỗi con người. Như vậy, phát triển nguồn nhân lực với nội hàm trên đây thực chất là đề cập đến vấn đề chất lượng nguồn nhân lực và khía cạnh xã hội của nguồn nhân lực của một quốc gia.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (đại học, trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề). Giữa chất lượng nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nói đến chất lượng nguồn nhân lực là nói đến tổng thể nguồn nhân lực của một quốc gia, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng, là nhóm tinh tựu nhất, có chất lượng nhất. Bởi vậy, khi bàn về nguồn nhân lực chất lượng cao không thể không đặt trong tổng thể vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nói chung của một đất nước. Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn nhân lực phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường (yêu cầu của các doanh nghiệp trong và ngoài nước), đó là: có kiến thức chuyên môn, kinh tế, tin học; có kỹ năng, kỹ thuật, tìm và tự tạo việc làm, làm việc an toàn, làm việc hợp tác; có thái độ, tác
phong làm việc tốt, trách nhiệm với công việc. Như vậy, nguồn nhân lực chất lượng cao phải là những con người phát triển cả về trí lực và thể lực, cả về khả năng lao động, về tính tích cực chính trị - xã hội, về đạo đức, tình cảm trong sáng. Nguồn nhân lực chất lượng cao có thể không cần đông về số lượng, nhưng phải thực chất.
Khi chuyển dần sang nền kinh tế tri thức và trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng thể hiện vai trò quyết định của nó. Các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng, một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và ở mức cao phải dựa trên ít nhất ba trụ cột cơ bản: áp dụng công nghệ mới, phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, động lực quan trọng nhất của sự tăng trưởng kinh tế bền vững chính là những con người, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, tức là những con người được đầu tư phát triển, có kỹ năng, kiến thức, tay nghề, kinh nghiệm, năng lực sáng tạo nhằm trở thành “nguồn vốn - vốn con người, vốn nhân lực”. Bởi trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc gia có nguồn nhân lực chất lượng cao, có môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư, có môi trường chính trị - xã hội ổn định.
1.2.4. Bồi dưỡng lý luận chính trị
1.2.4.1. Bồi dưỡng
Bồi dưỡng là quá trình cập nhật, bổ sung kiến thức, kỹ năng, thái độ nhằm nâng cao năng lực trình độ nghề nghiệp.
Bồi dưỡng là bổ sung, bồi đắp những thiếu hụt về tri thức, cập nhật cái mới trên cơ sở nuôi dưỡng những cái đã có để mở rộng, làm cho chúng phát triển thêm, có giá trị làm tăng hệ thống những tri thức, kỹ năng, nghiệp vụ, làm giàu vốn hiểu biết, nâng cao hiệu quả lao động.
Theo tổ chức UNESCO “Bồi dưỡng với nghĩa nâng cao nghề nghiệp, quá trình này chỉ diễn ra khi cá nhân và tổ chức có nhu cầu nâng cao kiến thức hoặc kỹ năng chuyên môn của bản thân nhằm đáp ứng nhu cầu lao động nghề nghiệp” [29]. Như vậy, thực chất của bồi dưỡng là quá trình bổ sung những thiếu hụt về