Định Hướng Phát Triển Kinh Tế - Xã Hội Tỉnh Viêng Chăn Đến Năm 2025, Tầm Nhìn 2030


Những yếu kém này là nguyên nhân dẫn đến quản lý vốn đầu tư từ NSNN trên địa bàn tỉnh Viêng Chăn chưa đáp ứng yêu cầu.

Thứ bảy, tỉnh Viêng Chăn chưa tích cực triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu.

Số các đơn vị trên địa bàn tỉnh nhận khoán NSNN chưa nhiều. Một số đơn vị, cơ quan đã viện dẫn nhiều lý do để tăng biên chế trước khi nhận khoán, sau đó lại tìm cách xin khoán kinh phí cho số biên chế tăng thêm này, nên chi NS không giảm đi, mà lại tăng thêm. Một số đơn vị thực hiện cơ chế khoán, do không xác định được sản phẩm cuối cùng, nên chỉ khoán chung chung là hoàn thành chức năng nhiệm vụ được giao, giảm tác động tích cực của khoán chi hành chính. Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao như khối lượng, chất lượng công việc của đơn vị chưa được thực hiện quyết liệt, nên việc chi trả thu nhập tăng thêm còn mang tính cào bằng, bình quân.

Một số đơn vị sự nghiệp chưa thực sự đổi mới cơ chế quản lý nhằm phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, nâng cao hiệu quả và chất lượng hoạt động của đơn vị để tìm nguồn thu ngoài NSNN. Một số cơ chế chính sách khoán chưa được cụ thể hóa, hoàn thiện nên các cơ quan bị động trong quá trình triển khai thực hiện cơ chế tự chủ.

2.3.3.2. Nguyên nhân khách quan

Một là, cơ chế, chính sách, định mức chi NSNN của TW còn tồn tại một số bất

cập.

Luật NSNN năm 2015 quy định (Quốc hội Lào, 2015) [37]: Việc lập và

phân bổ dự toán chi NSNN phải được xác định trên cơ sở mục tiêu phát triển KTXH, bảo đảm an ninh quốc phòng. Đối với CTX, việc lập dự toán phải căn cứ vào nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và tuân theo các chế độ, tiêu chuẩn, định mức do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định. Đối với chi trả nợ thì phải căn cứ vào các nghĩa vụ trả nợ của năm dự toán. Việc lập dự toán CTX được tổ chức xây dựng, tổng hợp từ các địa phương, cơ quan, đơn vị sử dụng NS. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thời gian lập dự toán và phân bổ dự toán quá ngắn nên các cấp cơ sở khó dự toán chính xác, các cơ quan tham mưu cho HĐND tỉnh khó tổng hợp và đánh giá các căn cứ lập dự toán một cách cẩn trọng. Chính vì thế, dự toán

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.


NSNN và mục tiêu phát triển KTXH còn có khoảng cách.

Quản lý chi ngân sách nhà nước tỉnh Viêng Chăn, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào - 17

Định mức phân bổ TW ban hành nhanh chóng lạc hậu song được duy trì ổn định trong cả thời kỳ dài, vì vậy nhiều đơn vị không tiết kiệm được kinh phí hoặc tiết kiệm không đáng kể đã làm giảm động lực nhận khoán của cán bộ, công chức trong đơn vị thụ hưởng NS. Theo số liệu điều tra cán bộ quản lý NSĐP của tỉnh Viêng Chăn, hơn một nửa số người được hỏi cho rằng việc quản lý NSĐP của họ gặp khó khăn do nhiều định mức TW quy định không hợp lý. Ví dụ: Định mức chi phí tư vấn thiết kế theo tỷ lệ % chi phí, nên đơn vị tư vấn có động cơ đẩy chi phí dự án lên cao. Định mức phân bổ NS căn cứ theo dân số là một chỉ tiêu không chính xác vì số lượng dân cư nơi khác đến Tỉnh Viêng Chăn khá nhiều, chưa được phản ánh trong chỉ tiêu phân bổ NS tỉnh. Định mức như vậy cũng không khuyến khích địa phương quản lý số lượng người đi học một cách hiệu quả, bởi lẽ trường hợp số lượng trẻ em trong độ tuổi đến trường của địa phương có tăng lên hay giảm đi thì cũng không ảnh hưởng đến nguồn tài chính đã được phân bổ cho sự nghiệp giáo dục.

Hệ thống định mức phân bổ NS giai đoạn 2016 -2020 chưa bao quát hết các lĩnh vực chi, một số định mức chi vẫn còn eo hẹp, chưa đảm bảo cho đơn vị thụ hưởng NS đủ kinh phí hoàn thành tốt nhiệm vụ. Ví dụ như định mức chi giáo dục không có khoản chi phụ cấp dạy thêm giờ (do chưa được tính vào nhóm chi con người), trên thực tế phải bù đắp từ khoản chi hoạt động nên không khuyến khích các trường tổ chức các hoạt động đa dạng hấp dẫn học sinh. Mặt khác, nhiều định mức chi được xác định tại năm đầu của thời kỳ ổn định, trong những năm tiếp theo, khi chính sách của TW thay đổi, các định mức này nhanh chóng lạc hậu, nhưng không được phép thay đổi. Một ví dụ khác là định mức phân bổ CTX chưa cơ cấu vào các khoản kinh phí thực hiện quy hoạch, cải cách hành chính, ứng dụng ISO, ứng dụng công nghệ thông tin, cổng thông tin điện tử, văn phòng điện tử, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, mua sắm và sửa chữa tài sản… Trong thực tế NSĐP vẫn phải cân đối để chi những nhiệm vụ này.

Chưa xây dựng được định mức phân bổ chi cho nhiệm vụ đặc thù, mua sắm, sửa chữa lớn tài sản cố định trong nội dung chi quản lý nhà nước, đảng, đoàn thể. Một số nội dung chi không có định mức cụ thể mà chỉ quy định một tỷ lệ % nhất


định (như chi sự nghiệp kinh tế theo tỷ lệ 8% đối với các huyện vùng IV và 7% đối với các huyện còn lại trên tổng CTX; chi sự nghiệp môi trường bằng 7% tổng CTX phân bổ cho cấp huyện; CTX khác bằng 1%...)

Số liệu điều tra cán bộ quản lý NSĐP ở tỉnh Viêng Chăn cũng cho thấy, có tới 52,7% số người được hỏi cho rằng họ gặp khó khăn trong chấp hành dự toán NS do chất lượng dự toán thấp, chênh lệch giữa dự toán và thực hiện khá lớn. Việc sử dụng cơ sở nguồn lực hiện có làm căn cứ lập dự toán, tuy có tính hiện thực về mặt tài chính, dễ làm, phù hợp với tác phong và tư duy quản lý hiện thời của cơ quan quản lý NSĐP, nhưng cũng bộc lộ nhiều bất cập. Chẳng hạn như, trong quá trình lập dự toán NS hàng năm, việc thương thuyết từ khi chuẩn bị, soạn thảo đến trình duyệt, điều chỉnh NS thường mâu thuẫn và kéo dài. Bên chi tiêu - luôn đưa ra các yêu cầu cao; bên quản lý nguồn lực - luôn phải cắt xén để tương thích với nguồn thu. Trên thực tế, thỏa thuận dự toán thường kết thúc bằng việc thoả hiệp giữa các bên: Bên xin giảm một ít, bên cắt nhượng bộ một ít. Việc xây dựng dự toán NS như vậy mang nặng tính “xin - cho”. Cơ chế phân bổ nguồn lực tài chính dựa vào định mức cũng bộc lộ một số bất cập: Các định mức hiện dùng đều tính toán theo đầu vào, không ràng buộc trách nhiệm đối với người sử dụng về kết quả hoạt động do NS tài trợ. Hơn nữa, hệ thống định mức chi dễ bị lạc hậu do biến động giá cả, lạm phát. Một số định mức TW quy định chung cho cả nước, không phù hợp với Tỉnh Viêng Chăn.

Việc giảm đại trà 15% CTX thực sự gây khó cho các đơn vị có nguồn tài chính eo hẹp, trong khi không khuyến khích tiết kiệm đủ mức NS ở các khâu còn lãng phí. Việc tách biệt giữa quản lý CTX và chi ĐTPT cũng mang lại những bất cập như: Các khoản CTX về cơ bản được điều chỉnh bởi Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật NSNN, trong khi đó các khoản chi ĐTPT được quản lý bởi hệ thống các văn bản pháp lý về đầu tư công nên khó gắn kết và đánh giá tác động của hai khoản mục chi NS đó. Các đánh giá trong và sau khi thực hiện đầu tư cũng chưa được quy định phù hợp với luật NSNN. Việc báo cáo định kỳ còn hình thức. Cơ chế thưởng, phạt đối với việc tuân thủ chưa đủ sức răn đe.

Các quy định về thanh tra, kiểm tra, quyết toán công khai NS chưa thực sự đầy đủ, cụ thể. Luật NSNN chưa quy định rõ trường hợp thực hiện kiểm toán thì


KTNN phải gửi báo cáo quyết toán NSNN tới HĐND trước kỳ họp để cung cấp thông tin cho các cơ quan, tổ chức này trước khi xem xét, phê chuẩn. Luật cũng không quy định cụ thể là phải xử lý xong các sai phạm đã được phát hiện trước khi trình HĐND.

Việc ban hành chính sách, pháp luật còn chậm, chưa đồng bộ và phù hợp với tiến trình phát triển của tỉnh. Việc đổi mới, sắp xếp lại để nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được thực hiện quyết liệt. Việc đổi mới cơ chế hoạt động, thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp chậm được nghiên cứu, triển khai.

Hai là, trình độ phát triển kinh tế thấp, chi phí xây dựng công trình cao, phát sinh nhiều nhu cầu chi NS đặc thù… không thuận lợi cho quản lý chi NSĐP.

Nguyên nhân của tình trạng chi thực tế lệch với dự toán là do tỉnh chưa bảo đảm được nguồn thu bền vững, bộ máy quản lý nhà nước cồng kềnh, kém hiệu quả đã "hút" nguồn lực phục vụ CTX, áp đảo nguồn lực chi ĐTPT. Vì NSĐP của tỉnh phụ thuộc rất lớn vào cân đối từ NSTW nên nảy sinh tâm lý ỷ lại của cả cán bộ quản lý lẫn cán bộ sử dụng NSĐP. Hệ lụy của tư tưởng này khá tiêu cực. Một mặt, cơ quan cấp NS vẫn có thể thực hành cung cách phân bổ NS theo kiểu xin - cho vì đa phần dự án đầu tư đều được cấp vốn từ nguồn cân đối của TW. Cách điều hành này tạo cơ hội cho chi phí ngầm. Mặt khác, các đơn vị sử dụng NS vừa ỷ lại NSNN, vừa khó năng động trong hoạch định kế hoạch hành động của mình. Hậu quả là NS được sử dụng không theo các kế hoạch tối ưu.

Ba là, các hướng dẫn và đánh giá truớc, trong và sau chi NSNN còn lỏng lẻo.

Sự lỏng lẻo này trước hết bắt nguồn từ sự tách biệt giữa chi đầu tư và CTX. Hệ quả là các khoản CTX về cơ bản được điều chỉnh bởi Luật NSNN và các văn bản hướng dẫn Luật NSNN; trong khi đó các khoản chi đầu tư được quản lý bởi hệ thống các văn bản pháp lý về chi đầu tư. Điều đó có nghĩa là, không có một khung thống nhất để xem xét tổng chi phí và tổng lợi ích có được từ các đề án, dự án sử dụng ngân sách.

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Với mục tiêu phân tích thực trạng quản lý chi NSĐP tỉnh Viêng Chăn nhằm tìm ra những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong quản lý chi NSĐP tỉnh Viêng


Chăn, nghiên cứu đã đạt được những kết quả sau:

(1) Khái quát quá trình hình thành, phát triển tỉnh Viêng Chăn.

(2) Đánh giá khái quát các chỉ tiêu KTXH, tình hình thu chi ngân sách tỉnh Viêng Chăn giai đoạn 2016 – 2020.

(3) Phân tích thực trạng quản lý chi NSNN tỉnh Viêng Chăn giai đoạn 2016 - 2020 trên 2 nội dung: (i) Bộ máy quản lý chi NS và phân cấp ngân sách; và (ii) Quản lý chi NSĐP. Trong đó, nội dung quản lý chi NSĐP lại được đánh giá theo các giá độ: Lập dự toán chi NS; tổ chức chấp hành chi NSNN, quyết toán chi NSNN và công tác thanh tra, kiểm toán và giám sát chi NSNN tỉnh Viêng Chăn. Từ đó, luận án tổng hợp chung để rút ra những kết quả đạt được, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong quản lý chi NSĐP tỉnh Viêng Chăn. Những đánh giá về thực trạng quản lý chi NSĐP tỉnh Viêng Chăn được phân tích trên cơ sở số liệu tổng hợp từ các cơ quan nhà nước của tỉnh và từ kết quả điều tra, khảo sát của NCS đã đảm bảo các đánh giá, nhận xét có cơ sở vững chắc.

(4) Nhận diện rõ các hạn chế chủ yếu của quản lý chi NSĐP tỉnh Viêng Chăn là: Chất lượng lập dự toán ngân sách còn thấp; cách thức phân bổ NSĐP chưa phù hợp; một số định mức chi được xác định không phù hợp thực tiễn; kỷ luật chấp hành ngân sách chưa chặt chẽ; vẫn còn tình trạng thất thoát, lãng phí trong quản lý, sử dụng ngân sách; công tác quyết toán ngân sách nhà nước còn chưa đúng nội dung và chưa đảm bảo thời hạn quy định…

(5) Chỉ ra các nguyên nhân khách quan và chủ quan của hạn chế. Đó là: Hệ thống định mức trên cơ sở phân chia ngân sách cho các ngành, lĩnh vực, không dựa trên đánh giá khách quan về chức năng, nhiệm vụ, mục đích, mục tiêu của từng ngành, lĩnh vực trong mỗi thời kỳ; chưa dự trù được nguồn lực dành cho khu vực công; năng lực tổ chức của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý NSĐP còn hạn chế; công tác phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương trong quản lý chi NSĐP chưa chặt chẽ; tỉnh chưa tích cực triển khai thực hiện cơ chế tự chủ tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp có thu; cơ chế, chính sách, định mức chi ngân sách trung ương còn một số bất cập; trình độ phát triển kinh tế của tỉnh thấp, chi phí xây dựng công trình cao, phát sinh nhiều nhu cầu chi NS đặc thù nên không thuận lợi cho quản lý chi NSĐP…


CHƯƠNG 3

HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG TỈNH VIÊNG CHĂN NƯỚC CỘNG HOÀN DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO


3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH VIÊNG CHĂN ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN 2030

Viêng Chăn là tỉnh có tiềm năng về thu hút các nhà đầu tư vào các lĩnh vực như: Công nghiệp, du lịch, nông nghiệp công nghệ cao. Nhân dân các bộ tộc Lào trong tỉnh có truyền thống đoàn kết từ lâu đời, cần cù lao động.

Trước bối cảnh KTXH trong thời gian tới, tỉnh Viêng Chăn có nhiều thời cơ đan xen với thách thức, tỉnh Viêng Chăn sẽ tập trung thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là phát triển KTXH, đồng thời phải đảm bảo sự ổn định về an ninh, chính trị trật tự an toàn xã hội. Trong giai đoạn này, cần tạo được chuyển biến mạnh mẽ đưa tỉnh Viêng Chăn ra khỏi tình trạng chậm phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tình thần, văn hóa, tinh thần cho nhân dân; tạo đà cho phát triển cho những năm sau, đến năm 2030 tỉnh Viêng Chăn cơ bản trở thành tỉnh có nền CNH, HĐH; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng an ninh ôn đinh và được giữ vững, tình đoàn kết dân tộc, xã hội ổn định và trật tự có sự công bằng về pháp luật đều được tăng cường. Do vậy, trong triển được phát triển KTXH đến năm 2030 tỉnh Viêng Chăn, nước CHDCND Lào đã xác định rõ các mục tiêu sau đây:

- Đưa GDP đạt trên 10% đến năm 2030 phấn đấu tăng thu nhập bình quân

9.500 USA/người/năm tăng lên 6 lần so với hiện tại. Nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp, và nền kinh tế. thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, tăng số lượng, chủng loại và chất lượng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.

- Phát triển kinh tế phải gắn kết đồng bộ với các chương trình, chính sách phát triển xã hội, từng bước nâng cao dân trí, giảm tỷ lệ thất nghiệp, cải thiện đời sống không ngừng nâng cao thu nhập chi người dân. Chất lượng đời sống vật chất, văn hóa tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh;


môi trường tự nhiên được bảo vệ bền vững và cải thiện.

- Phát triển kinh tế theo hướng công nghiệp hiện đại đáp ứng yêu cầu của công cuộc CNH, HĐH.

- Hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng phải đi trước một bước để đáp ứng nhu cầu phát triển cân đối bền vững của nền KTXH, quốc phòng, an ninh.

- Nâng cao chất lượng giao dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực.

- Nâng cao chất lượng công tác y tế và các dịch vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe của nhân dân các dân tộc Lào.

Từ phương hướng, mục tiêu tổng quát, xác định các chi tiêu đạt được là:

- Đạt tăng trưởng GDP ở mức 8% giai đoạn 2021 - 2025, bình quân 3.500 USA/người/năm; giai đoạn 2025 - 2030 phấn đấu đạt 6.507 USD/người/năm. Có nghĩa là tăng trưởng GDP trung bình quân trong suốt giai đoạn 2016 - 2030 là 8,5%

- 9%. Điều này sẽ dẫn đến kết quả là đạt tăng trưởng GDP ở mức 27.382.485 tỷ kíp năm 2025 - 2030. Đến năm 2030, thu nhập bình quân đầu người đạt 52 triệu kíp.

- Tiếp tục đa dạng hóa đáng kể nền kinh tế bằng cách tăng cường tập trung vào công nghiệp, đặc biệt là khai khoáng, sản xuất kim loại và sản xuất tuyến dưới tọa giá trị gia tăng, đồng thời tập trung vào nâng cao năng suất nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Cơ cấu GDP của nền kinh tế sẽ đạt: Nông nghiệp 40%, công nghiệp 25%, dịch vụ 35% tính đến năm 2020. Nông nghiệp 37%, công nghiệp 28%, dịch vụ 35% tính đến năm 2025. Nông nghiệp 33%, công nghiệp 30%, dịch vụ 37% tính đến năm 2030.

- Chuyển dịch lao động từ các khu vực năng suất thấp như nông nghiệp sang khu vực có năng suất cao hơn như công nghiệp. Cơ cấu việc làm sẽ đạt cơ cấu sau: nông nghiệp 50,38%, công nghiệp 18,62%, dịch vụ 31% năm 2021 - 2025. Đến năm 2030, nông nghiệp 48%, công nghiệp 21%, và dịch vụ 31% trong. Nâng cao năng suất lao động ở mức 5% một năm trong nông nghiệp, từ 15 triệu kíp giai đoạn 2016

- 2020 lên 25 triệu kíp năm 2020 - 2025. Đến năm 2030 đạt 35 triệu kíp. Thông qua những nỗ lực không ngừng, về đào tạo nông dân đa dạng hóa sản phẩm và tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân.

- Đảm bảo sự phát triển các ngành chủ chốt theo quy hoạch tổng thể quốc


gia để tạo ra 1.500 việc làm trên năm trong giai đoạn 2021 - 2025. Trong giai đoạn 2026 -2030 tạo ra 2.000 việc làm trên năm, đảm bảo lực lượng lao động đã qua đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động.

- Đảm bảo tổng vốn đầu tư đạt tư đạt 558 tỷ kíp, trong đó 35 tỷ kíp là đầu tư công trong giai đoạn 2021 - 2025. Giai đoạn 2026 - 2030 đảm bảo vốn đầu tư đạt khoảng 649 tỷ kíp.

- Phát triển đồng bộ, cân đối giữa các vùng kinh tế, vừa phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng trong điểm, vừa tạo điều kiện cho các vùng nghèo có cơ hội phát triển.

- Đẩy mạnh thực hiện các chương trình xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm, từng bước nâng cao đời sống nhân dân, nhất là các huyện vùng sâu, vùng xa.

3.2. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM VÀ YÊU CẦU HOÀN THIỆN QUẢN LÝ CHI NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG TỈNH VIÊNG CHĂN ĐẾN NĂM 2025, TẦM NHÌN 2030

3.2.1. Mục tiêu hoàn thiện quản lý chi ngân sách địa phương tỉnh Viêng

Chăn

Một là, mục tiêu đầu tiên khi hoàn thiện quản lý chi NSNN trên địa bàn tỉnh

Viêng Chăn thời gian tới là khắc phục nhược điểm hiện nay và từng bước hướng tới việc quản lý nguồn lực tài chính theo các chuẩn mực hiện đại. Cũng như mọi hoạt động quản lý khác, việc quản lý NSNN nói chung và ngân sách địa phương nói riêng muốn nâng cao hiệu quả và chất lượng thì phải được tổng kết, đánh giá, nhận diện những nhược điểm đã phát sinh, bởi lẽ, khi khắc phục những nhược điểm này thì hệ thống quản lý sẽ tốt hơn và phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn. Thêm vào đó, hướng khắc phục các nhược điểm này là loại bỏ các nguyên nhân của nhược điểm và điều chỉnh theo hướng quản lý tài chính hiện đại, từng bước hướng đến các chuẩn mực quốc tế hiện đại.

Hai là, quản lý chi NSNN phải nhằm thiết lập và duy trì được kỷ luật tài khóa chặt chẽ, bởi lẽ, kỷ luật tài khóa có ý nghĩa thiết yếu trong việc tuân thủ Luật Ngân sách, đảm bảo mọi hoạt động quản lý nhà nước đều trên cơ sở thực hiện đúng quy định pháp luật với tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Muốn vậy, cần phải

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 23/02/2023