phát triển văn hoá, về chiến lược xây dựng phát triển ngành Văn hoá. Xây dựng và phát triển bảo tàng Việt Nam theo quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Bảo tàng là cơ quan nghiên cứu khoa học và văn hoá giáo dục, tiến hành các công tác sưu tầm, kiểm kê, bảo quản, nghiên cứu, trưng bày và tuyên truyền về giá trị di sản văn hoá và các tài sản thiên nhiên phù hợp với chức năng xã hội của mình. Chức năng của bảo tàng có ý nghĩa xã hội và được xác định bởi những yêu cầu phát triển xã hội. Trong đó quan trọng nhất là chức năng giáo dục và phổ biến kiến thức khoa học về lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đảm bảo cho văn hoá trong đó có hoạt động bảo tàng thực sự trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội, cần nâng cao nhận thức về vị trí vai trò của bảo tàng trong đời sống xã hội, định hướng đúng để bảo tàng phát triển chuyên môn, hướng tới phục vụ công chúng với tính chuyên nghiệp cao. Hoạt động bảo tàng luôn luôn gắn với những hoạt động văn hoá khác. Vì vậy phải đặt hoạt động bảo tàng trong mối quan hệ đa dạng với các hoạt động văn hoá nhằm khai thác triệt để khả năng đóng góp và vai trò hoạt động của bảo tàng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Bảo tàng phải góp phần đắc lực khẳng định vị thế của văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Hướng mọi hoạt động vào việc xây dựng con người Việt Nam hiểu biết lịch sử, văn hoá dân tộc, có năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái, trọng nghĩa tình, làm cho văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách. Do đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của bảo tàng ngoài công lập được thể hiện rò trên tinh thần xây dựng và phát triển bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam thành hệ thống hoàn chỉnh, đồng bộ, hài hòa giữa tính dân tộc và hiện đại, hội nhập, một loại thiết chế văn hoá đặc thù, đa dạng về loại hình, đa dạng về chức năng, hoạt động có hiệu quả trong công tác giáo dục truyền thống lịch sử - văn hoá, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao cho đất nước. Quan điểm phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam trên cơ sở tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhà nước và mở rộng xã hội hoá các mặt hoạt động, thích nghi với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mở ra các hoạt động dịch vụ văn hoá phù hợp, phục vụ công chúng tham quan và tạo nguồn thu tái đầu tư cho phát triển sự nghiệp bảo tàng.
3.2.2. Định hướng phát triển bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam
Định hướng phát triển bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam của Đảng và Nhà nước được thể hiện rất rò qua việc ban hành nghị quyết từ trung ương đến địa phương, các văn bản quy phạm pháp luật và chính sách khuyến khích, hỗ trợ bảo tàng ngoài công lập.
3.2.2.1. Định hướng phát triển các loại hình bảo tàng trong đó có bảo tàng ngoài công lập
Định hướng của Đảng và Nhà nước đối với việc phát triển bảo tàng ngoài công lập chủ yếu thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng đã xác định rò mục tiêu của chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa là: “Chính sách xã hội hóa hoạt động văn hóa nhằm động viên sức người sức của, của các tầng lớp nhân dân, các tổ chức xã hội để xây dựng và phát triển văn hóa”. Theo tinh thần của Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII về vấn đề xã hội hóa hoạt động văn hóa, bảo tàng cũng chính là một lĩnh vực hoạt động văn hóa. Xã hội hóa hoạt động bảo tàng chính là việc vận động và tổ chức rộng rãi cho quần chúng nhân dân và toàn xã hội tham gia đóng góp vào sự phát triển sự nghiệp bảo tàng. Ngày nay, theo định hướng của nhà nước, việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam đã mở ra cho sự nghiệp bảo tàng nước ta một hướng tiếp cận mới, vừa góp phần vào việc bảo tồn di sản văn hóa của đất nước và giới thiệu di sản đó đến với dân chúng, lại vừa khuyến khích nhân dân đặc biệt là các nhà sưu tập tham gia vào hoạt động bảo tàng. Đây là một lĩnh vực xã hội hóa hoạt động bảo tàng và chắc chắn sẽ đạt được hiệu quả cao trong tương lai. Mục tiêu mà chính sách xã hội hoá hoạt động bảo tàng ở nước ta cần hướng tới đó là:
- Xã hội hoá hoạt động bảo tàng là nhằm mở rộng các nguồn đầu tư khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng về nhân lực, vật lực, trí lực trong xã hội với mục đích đẩy mạnh sự phát triển của sự nghiệp bảo tồn - bảo tàng, góp phần thực hiện cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá của Đảng ta.
- Phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập, phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa học, giảng dạy, phổ biến tri thức về lịch sử, văn hóa, khoa học và thưởng thức văn hóa của công chúng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới phương thức hoạt động tại các bảo tàng, tăng cường quảng bá giới thiệu bảo tàng trên các phương tiện truyền thông, mở rộng các hình thức dịch vụ trong bảo tàng
Có thể bạn quan tâm!
- Mô Hình Chủ Sở Hữu Là Cá Nhân Kiêm Giám Đốc Bảo Tàng
- Về Quản Lý Nhà Nước Đối Với Bảo Tàng Ngoài Công Lập
- Dự Báo Xu Hướng Phát Triển Bảo Tàng Ngoài Công Lập
- Xây Dựng Chính Sách Phát Triển Bảo Tàng Ngoài Công Lập.
- Tăng Cường Hỗ Trợ, Đào Tạo Và Bồi Dưỡng Về Chuyên Môn Cho Các Bảo Tàng Ngoài Công Lập
- Quản lý các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam - 18
Xem toàn bộ 273 trang tài liệu này.
để đảm bảo nguồn kinh phí cho hoạt động và phát triển bảo tàng. Mở rộng hợp tác với các bảo tàng, các thiết chế văn hoá khác trong và ngoài nước. Thu hút nguồn kinh phí đầu tư thông qua các dự án bằng nhiều nguồn vốn khác nhau.
Xã hội hóa hoạt động bảo tàng phải gắn liền với việc nghiên cứu và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật sao cho phù hợp với Luật Di sản văn hoá đã được ban hành, vừa phù hợp với tình hình đặc điểm đất nước, vừa cải tiến bộ máy quản lý, việc bồi dưỡng đào tạo để nâng cao trình độ cho các cán bộ làm việc trong lĩnh vực bảo tàng nhằm thực hiện tốt vai trò quản lý và hướng dẫn của Nhà nước đối với xã hội hóa hoạt động bảo tàng. Đồng thời phải tiến hành đổi mới các hoạt động bảo tàng cho phù hợp với yêu cầu mới của xã hội nhằm phục vụ công chúng tốt hơn và hiệu quả hơn. Bên cạnh mục tiêu xã hội hóa hoạt động văn hóa được thể hiện trong Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII), định hướng phát triển bảo tàng trong đó có bảo tàng ngoài công lập còn được thể hiện cụ thể trong Chiến lược phát triển văn hóa của Thủ tướng Chính phủ ở mục 3 khoản d, về lĩnh vực bảo tàng: “khuyến khích thành lập bảo tàng, xây dựng các bộ sưu tập tư nhân”. Bảo tàng công lập và ngoài công lập đều bình đẳng và được quan tâm trong chiến lược phát triển văn hóa của Chính phủ. Đây cũng là điều kiện thuận lợi giúp cho bảo tàng ngoài công lập hình thành và phát triển trong tương lai. Ngày nay, theo định hướng của nhà nước, việc khuyến khích, mở rộng xây dựng các bảo tàng hoặc các sưu tập tư nhân, hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, phù hợp với truyền thống văn hoá, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam đã mở ra cho sự nghiệp bảo tàng nước ta một hướng tiếp cận mới, vừa góp phần vào việc bảo tồn di sản văn hóa của đất nước và giới thiệu di sản đó đối với dân chúng, lại vừa khuyến khích nhân dân đặc biệt là các nhà sưu tập tham gia vào hoạt động bảo tàng. Định hướng của Đảng và Nhà nước là căn cứ quan trọng giúp cho các bộ, ban, ngành và các địa phương ban hành những chính sách phát triển bảo tàng ngoài công lập.
3.2.2.2. Chính sách ưu đãi cho bảo tàng ngoài công lập
Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách như: ưu đãi cho các tổ chức, cá nhân tham gia xã hội hóa hoạt động bảo tàng, đặc biệt là ưu đãi trong việc cấp đất xây dựng bảo tàng và miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, nếu cá nhân, tổ chức doanh nghiệp tham gia xã hội hóa trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá, thể hiện rất cụ thể trong Nghị định 69/NĐ/TTg của Thủ tướng Chính phủ. Nhằm cụ thể hơn nữa chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa trong đó có bảo tàng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của bảo tàng ngoài công lập trong tương lai, Bộ VHTTDL đã ban hành Chỉ thị số
84/2008/CT-BVHTTDL ngày 03 tháng 11 năm 2008 về “Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc đẩy sự ra đời, phát triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân”. Chỉ thị đã kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của bảo tàng ngoài công lập và các sưu tập tư nhân.
Bên cạnh các chính sách ưu đãi của Đảng và Nhà nước đối với các bảo tàng ngoài công lập, nhiều địa phương đã nhận thấy vị thế và vai trò của bảo tàng ngoài công lập và đã chủ trương khuyến khích sự ra đời và phát triển của bảo tàng ngoài công lập như ban hành những chính sách ưu đãi đối với bảo tàng ngoài công lập. Cụ thể là năm 2020, Hội đồng nhân dân Thừa Thiên Huế đã ra Nghị quyết “Quy định một số chính sách hỗ trợ phát triển bảo tàng ngoài công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030” và UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã cụ thể hóa Nghị quyết bằng việc ban hành đề án “Chính sách hỗ trợ phát triển bảo tàng ngoài công lập trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030”. Điều này cũng thể hiện sự quan tâm của các tỉnh/thành phố đối với loại hình bảo tàng ngoài công lập trên địa bàn bằng các văn bản cụ thể quy định chính sách hỗ trợ cần thiết cho bảo tàng tồn tại và phát triển đáp ứng nhu cầu thực tế của cộng đồng.
Định hướng khuyến khích bảo tàng ngoài công lập phát triển từ Trung ương đến địa phương thể hiện qua việc ban hành cơ chế, chính sách như: hỗ trợ đất đai, cơ sở vật chất, chuyên môn, ưu đãi về thuế cho doanh nghiệp “đỡ đầu” cho các bảo tàng đã tạo những điều kiện thuận lợi bước đầu để bảo tàng ngoài công lập ra đời và hoạt động trong điều kiện vô vàn khó khăn đặc biệt là vấn đề tài chính.
3.2.2.3.. Tạo cơ sở pháp lý cho bảo tàng ngoài công lập hoạt động
Luật Di sản văn hóa năm 2001 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa năm 2009 [68], văn bản hợp nhất Luật Di sản văn hóa năm 2013 [87] đã phản ánh một bước chuyển biến rò rệt, tích cực về phương diện quản lý nhà nước về di sản văn hóa, thể hiện qua việc tạo lập một hành lang pháp lý rộng mở, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác xã hội hóa các hoạt động bảo tàng thể hiện ở Điều 47: Bảo tàng tư nhân sau này sửa đổi thành bảo tàng ngoài công lập đã chính thức được quy định trong Luật Di sản văn hóa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tạo điều kiện cho một loại hình bảo tàng mới ra đời và phát triển.
Bên cạnh Luật Di sản văn hoá, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật đã được ban hành nhằm tạo điều kiện tốt cho công tác quản lý bảo tàng ngoài công lập, khuyến khích động viên cho sự ra đời và phát triển bảo tàng ngoài công lập. Nghị định số 98/2010/NĐ-CP, ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Di sản văn hóa và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa [82]. Quyết định số 09/2004/QĐ-BVHTT ngày 24/2/2004 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của bảo tàng tư nhân [5]. Chỉ thị số 84/2008/CT-BVHTTDL về “Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân”. Thông tư số 18/2010/TT- BVHTTDL ngày 31 tháng 12 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành ngày 31/12/2010 quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng [9]. Đặc biệt là Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ký ngày 23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020. Đây là văn bản pháp lý rất quan trọng có tính định hướng cho sự phát triển của bảo tàng Việt Nam trong đó đặc biệt quan tâm phát triển bảo tàng ngoài công lập. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp tích cực trong công tác xã hội hóa nhằm góp phần bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá của cha ông, góp phần to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong những biện pháp hữu hiệu đó là ban hành luật và các văn bản dưới luật để thể chế hoá và đặt ra những nguyên tắc, những định hướng chung cho công tác xã hội hoá các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa nói chung và xã hội hóa hoạt động bảo tàng nói riêng. Có thể nói, nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên là những nền tảng pháp lý hết sức quan trọng và cần thiết đối với các nhà sưu tập tư nhân nói chung và các bảo tàng ngoài công lập nói riêng, là cơ sở để tiến hành các thủ tục cần thiết, tạo hành lang pháp lý quan trọng hướng dẫn cụ thể cho toàn bộ hoạt động bảo tàng ngoài công lập nhằm xây dựng, hình thành và phát triển hệ thống bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam.
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý các bảo tàng ngoài công lập
Từ thực tiễn hoạt động của bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam, NCS đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục hạn chế, nâng cao hiệu quả quản lý các bảo tàng ngoài công lập trong tương lai trên cơ sở xem xét vai trò của cơ quan quản lý nhà nước và vai trò của chủ sở hữu các bảo tàng ngoài công lập bằng các nhóm giải pháp như sau:
3.3.1. Nhóm giải pháp quản lý nhà nước đối với bảo tàng ngoài công lập
3.3.1.1. Hoàn thiện và xây dựng văn bản pháp quy về bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam
Việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý nhà nước đối với các bảo tàng ngoài công lập theo NCS cần đẩy nhanh. Theo đó, ngành văn hóa cần kịp thời triển khai, cụ thể hóa nội dung Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 (khóa XI), làm cơ sở
để xây dựng và ban hành những chính sách mới về văn hóa cũng như về hoạt động của các bảo tàng ngoài công lập. Đồng thời, đẩy mạnh điều chỉnh các chính sách cho phù hợp với tính đặc thù của hệ thống bảo tàng; bổ sung các chính sách kinh tế trong văn hóa và văn hóa trong kinh tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa. Nhà nước cần tiếp tục hoàn chỉnh các chính sách về xã hội hóa bảo tàng ngoài công lập. Trên cơ sở nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến các bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam kết hợp với khảo sát thực tiễn quản lý hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước như Cục Di sản văn hóa, Uỷ ban nhân dân tỉnh/thành phố, Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch các tỉnh/thành phố, NCS đề xuất chỉnh sửa, xây dựng và ban hành thêm một số văn bản nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về bảo tàng ngoài công lập ở Việt Nam. Trước hết là việc hoàn thiện và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành. Trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về bảo tàng và hoạt động của bảo tàng trong đó có các văn bản riêng và văn bản chung có những điều khoản quy định về bảo tàng ngoài công lập. Tuy nhiên những quy định trong các văn bản đó ở thời điểm hiện nay có điểm không phù hợp, chưa bao quát được các vấn đề đặt ra đối với việc hình thành và phát triển của bảo tàng ngoài công lập. Do đó, cần có sự điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về bảo tàng trong đó có bảo tàng ngoài công lập. Trên cơ sở các nghiên cứu lý luận cũng như thực trạng quản lý các bảo tàng ngoài công lập hiện nay, NCS đề xuất các nội dung cần sửa đổi và bổ sung trong các văn bản quy phạm pháp luật như sau:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hoá cụ thể là:
Điều 49, Luật Di sản văn hoá đã đưa ra 3 điều kiện thành lập bảo tàng nhưng chưa cụ thể dẫn đến những lúng túng, khó khăn khi triển khai thực hiện. Do đó, trong thời gian tới, các nhà quản lý nên nghiên cứu bổ sung các điều kiện cụ thể khi tiến hành sửa đổi Luật Di sản văn hoá, cụ thể là:
Khoản 1: Có sưu tập theo một hoặc nhiều chủ đề. Theo NCS cần bổ sung cụ thể bộ sưu tập cần có bao nhiêu hiện vật đủ điều kiện. Đây là cơ sở quan trọng giúp cho nhà quản lý và chủ sở hữu có căn cứ để giám định đủ số lượng hiện vật theo đúng yêu cầu. Việc này giúp rút ngắn thời gian xin giấy phép thành lập bảo tàng.
Khoản 2: Có nơi trưng bày, kho và phương tiện bảo quản. Cần bổ sung yêu cầu cụ thể về diện tích trưng bày và kho bảo quản (tuy nhiên, không nhất thiết phải chứng
minh quyền sở hữu đất đối với người đứng ra xin giấy phép thành lập bảo tàng) và tiêu chuẩn về phương tiện bảo quản.
Khoản 3: Có người am hiểu chuyên môn phù hợp với hoạt động bảo tàng. Cần bổ sung yêu cầu về bằng cấp, chứng chỉ đối với người phụ trách chuyên môn, có thể là chủ sở hữu bảo tàng hoặc thuê người chịu trách nhiệm về chuyên môn.
Sửa đổi, điều chỉnh Điều 53 luật Di sản văn hoá:
… khi cần thiết, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá – thông tin có thể thoả thuận với chủ sở hữu về việc sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc trưng bày tại các bảo tàng nhà nước
Nên sửa thành…. Khi cần tthiết các cơ quan nhà nước có thẩm quyền về văn hoá, thể thao và du lịch có thể thoả thuận với chủ sở hữu về việc sử dụng di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia để phục vụ cho công tác nghiên cứu hoặc trưng bày tại các bảo tàng trong và ngoài nước
Bổ sung quy định về việc thành lập và hoạt động các cơ sở giám định cổ vật theo hướng xã hội hóa. Những cơ sở giám định có đủ cơ sở pháp lý theo quy định tại mục 2 chương III của Luật Giám định Tư pháp năm 2012, chỉnh sửa bổ sung năm 2020 thì có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận cho cổ vật và chịu trách nhiệm pháp lý đối với việc cấp giấy chứng nhận đó. Điều này sẽ giúp các nhà sưu tập tư nhân có thể nhanh chóng giám định được các hiện vật trong sưu tập của mình để hoàn thành hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập bảo tàng ngoài công lập.
Hiện nay, các quy định, hướng dẫn về việc đưa di vật, cổ vật thuộc sở hữu tu nhân, hiện vật thuộc các bảo tàng ngoài công lập còn chưa rò ràng nên các di vật, cổ vật đó đã không thể tiến hành các thủ tục pháp lý để đưa ra nước ngoài, tham gia trưng bày. Điều đó đã làm giảm giá trị, sức hấp dẫn của ý tưởng và nội dung trưng bày đồng thời hạn chế khả năng phát huy tối đa giá trị cổ vật Việt Nam tới công chúng. Vì vậy, cần bổ sung thêm các quy định về di vật, cổ vật thuộc sở hữu tư nhân đưa đi trưng bày, triển lãm tại nước ngoài.
Bổ sung thêm hướng dẫn quy trình, điều kiện cho phép di vật, cổ vật thuộc sở hữu tư nhân, các bảo tàng ngoài công lập đi trưng bày ở nước ngoài và ngược lại (có thể quy định tiến hành thành 3 bước):
Bước 1: Chủ trương cho phép tổ chức trưng bày (bằng văn bản)
Bước 2: Quyết định phê duyệt kế hoạch trưng bày (làm căn cứ pháp lý cho các các đơn vị từ 2 phía Việt Nam và nước ngoài tiến hành ký kết hợp đồng/ hợp đồng kinh tế, mua bảo hiểm hiện vật đưa ra trưng bày ở nước ngoài)
Bước 3: Quyết định cho phép đưa hiện vật đi trưng bày ở nước ngoài. Thứ hai, bổ sung cụ thể nội dung trong các văn bản dưới luật:
Nghị định 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 9 năm 2010 của Chính phủ chưa có sự phân định cụ thể trách nhiệm và nội dung công việc giữa cơ quan quản lý nhà nước và chủ sở hữu sưu tập trong việc đăng ký cổ vật vì vậy dẫn đến lúng túng trong đăng ký hiện vật trong sưu tập, thiếu chuyên gia thẩm định, các quy định chưa chặt chẽ nên các nhà sưu tập không kê khai hoặc chỉ kê khai một phần rất nhỏ các hiện vật quý trong sưu tập của mình. Vì vậy việc quản lý di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia trở nên khó khăn và việc thành lập bảo tàng cũng không thể thực hiện theo đúng thời gian quy định. Cần thiết một sự phân cấp quản lý bảo tàng trong vấn đề đăng ký cổ vật đó là: UBND tỉnh/ thành phố sẽ chịu trách nhiệm đăng ký hiện vật cho bảo tàng.
Chỉ thị số 84/2008/CT-BVHTTDL về “Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo nhằm thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các bảo tàng và sưu tập tư nhân” [7]. Đây là văn bản riêng quy định việc tăng cường quản lý, chỉ đạo để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của bảo tàng ngoài công lập. Tuy nhiên, nội dung trong chỉ thị chưa có những quy định cụ thể về: cơ sở vật chất, nguồn kinh phí, hỗ trợ đào tạo và chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp tham gia xã hội hóa bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Do đó, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch nên nghiên cứu và phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và UBND các Tỉnh/Thành phố nhằm ban hành văn bản nhằm khuyến khích và tạo điều kiện cho sự phát triển của bảo tàng ngoài công lập như: tạo điều kiện về địa điểm xây dựng bảo tàng: địa phương sẽ hỗ trợ quỹ đất nhất là các vị trí thuận lợi cho việc xây dựng bảo tàng ngoài công lập bằng cách cho thuê đất dài hạn (30 – 50 năm) không tính thuế đất, tạo điều kiện cho cá nhân, tổ chức tham gia quá trình đầu tư vào hoạt động bảo tàng, hỗ trợ chuyên môn cho các bảo tàng khi mới thành lập cũng như trong quá trình hoạt động, hỗ trợ phát triển các sản phẩm của bảo tàng như một sản phẩm lưu niệm đặc trưng của bảo tàng, vừa để quảng bá, giới thiệu, tạo nguồn thu cho bảo tàng và thúc đẩy ngành du lịch địa phương, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho bảo tàng ngoài công lập và hỗ trợ vấn đề truyền thông cho bảo tàng.
Quy định tại phụ lục số VI về đề án hoạt động bảo tàng ban hành kèm theo Nghị định số 01/2012/NĐ-CP ngày 04 tháng 01 năm 2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ