Văn Hóa Nam Bộ Và Quá Trình Hình Thành Phong Cách Nguyễn Ngọc Tư


Chương 1

KHÁI NIỆM PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT

VÀ CƠ SỞ XÃ HỘI VĂN HÓA HÌNH THÀNH PHONG CÁCH NGUYỄN NGỌC TƯ

1.1. Lý luận về phong cách

1.1.1. Phong cách là gì?

Ở phương Tây, ngay từ thời cổ đại, với các đại biểu xuất sắc như Platon, Aristore, khái niệm phong cách đã được nêu lên, cho đến thế kỉ XIX, đặc biệt là thế kỉ XX, khái niệm phong cách ngày càng được quan tâm sâu sắc. Chỉ ngay ở Liên Xô, viện sỹ M.B Khrapchenko trong cuốn Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học đã thống kê tới gần 20 cách hiểu khác nhau về phong cách. Ngoài ra còn phải kể đến công trình của V. V. Vinôgrađôp, của D. X. Likhatsep các công trình của M.B Khrapchenko...

Trong lý luận văn học phương Đông cách nói Văn ư kỳ nhân (Văn tức là người), cũng là nhằm nói đến phong cách văn học, nó tương tự như cách nói ở phương Tây “Le style, c‟est l‟homme?”

Cụ thể, Trung Quốc, cách thời đại chúng ta gần 1.500 năm, Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long đã có hai chương bàn luận rộng rãi những vấn đề liên quan đến sáng tác văn chương và tác giả: trong 49 chương trình bày lý luận cơ bản về sáng tác, phê bình, phần thứ 3 bao gồm 24 chương cuối, tác giả bàn về phong cốt, tình thái...

Ở nước ta, tuy muộn màng hơn, nhưng những năm gần đây, các nhà lý luận nghiên cứu văn học đã dành nhiều công sức tìm hiểu vấn đề phong cách. Từ những sách công cụ như: Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi chủ biên. Các nhà lý luận, nghiên cứu văn học nước ta cũng đã bỏ nhiều công sức nghiên cứu nội hàm thuật ngữ phong cách. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong cuốn Từ điển thuật ngữ

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

văn học trên cơ sở thừa nhận hai phạm trù phong cách ngôn ngữ và phong


Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư - 3

cách nghệ thuật, đã định nghĩa: “Phong cách nghệ thuật là một phạm trù thẩm mỹ, chịu sự thống nhất tương đối ổn định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong một tác phẩm riêng lẻ, trong trào lưu văn học hay văn học dân tộc”. Và khẳng định: “Trong chỉnh thể “nhà văn” (hiểu theo nghĩa là các sáng tác của một nhà văn), cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”.

Thống nhất với quan điểm đó, các tác giả cuốn Lý luận văn học (NXB Giáo dục,1987) xác định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng nghệ thuật có phẩm chất thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của những nhà văn ưu tú”.

Từ những quan niệm về phong cách của các tác giả trong nước và ngoài nước, chúng tôi cũng đưa ra một quan niệm về phong cách như sau: Phong cách là một phạm trù thẩm mĩ, một chỉnh thể nghệ thuật, mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. Nó bao gồm những đặc điểm cả về nội dung và hình thức, thể hiện sự độc đáo, đặc trưng mang tính thống nhất, ổn định xuyên suốt các sáng tác của mỗi nhà văn.

Phong cách nhà văn là một quá trình vận động, phát triển không ngừng qua mỗi giai đoạn sáng tác. Mặc dù vậy, cái riêng độc đáo mang tính thẩm mĩ - cốt lõi phong cách, dù ở điều kiện hoàn cảnh nào cũng ổn định, thống nhất.

1.1.2. Các bình diện của phong cách

Có bốn kiểu quan niệm khác nhau về các bình diện của phong cách nghệ thuật:

(1) Phong cách chỉ thuần túy là vấn đề kỹ thuật hay cách thức biểu đạt, biểu hiện ở hình thức của tác phẩm.

(2) Phong cách chủ yếu và trước hết biểu hiện qua ý thức nghệ thuật, qua cái nhìn, qua cách cảm nhận thế giới độc đáo của nhà văn (phong cách chỉ biểu hiện ở nội dung).


(3) Phong cách biểu hiện cả ở nội dung, cả ở hình thức của tác phẩm.

(4) Phong cách biểu hiện thành những đặc điểm hình thức nhưng những đặc điểm này có nguồn gốc trong ý thức nghệ thuật của nhà văn, tức là hình thức có tính nội dung.

Chúng tôi nghiêng theo quan niệm thứ (4): “Tổng thể thẩm mỹ của tất cả các phương diện và các yếu tố của tác phẩm làm nên một sự đặc sắc nhất định.” Phong cách không phải là một yếu tố mà là một đặc tính của hình thức nghệ thuật, nên nó không bị định vị (chẳng hạn như các yếu tố cốt truyện hay chi tiết nghệ thuật), nó dường như tán phát trong toàn bộ cấu trúc hình thức. Do vậy, nguyên tắc tổ chức của phong cách được thể hiện trong mọi khúc đoạn văn bản, mỗi “điểm” văn bản đều mang trên mình dấu ấn của toàn thể. Nhờ đó, ta nhận ra phong cách qua các khúc đoạn riêng lẻ: người đọc thành thạo chỉ cần đọc một đoạn văn nhỏ trong tác phẩm của một nhà văn cũng đủ tự tin gọi tên tác giả của nó” [Bản dịch của Trịnh Bá Đĩnh, từ cuốn Bách khoa toàn thư văn học: các khái niệm và thuật ngữ, Viện Thông tin các khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Moskva, 2001, tr 1031]. Theo đó, phong cách chủ yếu được nhận diện qua các yếu tố hình thức mang tính nội dung. Tuy nhiên, phong cách không chỉ là hình thức, nó còn bắt rễ sang bình diện nội dung.

Trong luận văn này của mình, chúng tôi tập trung vào những nguyên tắc nghệ thuật, những kiểu lựa chọn riêng trong các yếu tố cấu trúc phong cách (cách xử lí, thế giới hình tượng, cốt truyện và ngôn ngữ…) để gọi tên các phương diện nội dung của phong cách (quan niệm nghệ thuật về con người, xã hội, tư tưởng nghệ thuật ...). Chúng tôi cũng luôn ý thức làm rõ sự gắn bó của các thành tố cấu trúc phong cách, các phương diện phong cách với

nhau và với chỉnh thể phong cách tác giả.


1.2. Văn hóa Nam Bộ và quá trình hình thành phong cách Nguyễn Ngọc Tư

Các nhà nghiên cứu văn học theo hướng tiểu sử học mà đại diện tiêu biểu nhất là nhà nghiên cứu Pháp H. Taine cho rằng vùng đất với môi trường văn hóa, địa lí, lịch sử của nó có ảnh hưởng rất lớn đến đặc tính sáng tác văn học của nhà văn. Ở ta, Nguyễn Bách Khoa, Trần Thanh Mại và nhiều nhà nghiên cứu khác nữa cũng vận dụng quan điểm này trong nghiên cứu văn của Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Trần Tế Xương và thu được nhiều kết quả. Một số ý kiến có thể cực đoan song ảnh hưởng của vùng văn hóa đến phong cách nhà văn là rõ ràng và được nhiều nhà nghiên cứu cũng như các nhà văn xác nhận.

1.2.1. Vùng văn hóa Nam Bộ-một số nét đặc sắc

Mang đặc trưng đồng bằng sông nước rõ nét nhất, đồng thời cũng đa dạng nhất so với tất cả các vùng miền khác. Cho nên, không ở đâu có nhiều từ ngữ để chỉ các loại hình và hoạt động sông nước như ở vùng này: sông, lạch, kinh, rạch, xẻo, ngọn, rọc, tắt, mương, rãnh, ao, hồ, đìa, hào, láng, lung, bưng, biền, đầm, đìa, trấp, vũng, trũng, gành, xáng, vịnh, bàu...; nước lớn, nước ròng, nước đứng, nước nhửng, nước rông, nước rặc, nước lên, nước xuống, nước nhảy, nước chụp, nước rút, nước nổi, nước lụt, nước lềnh, nước cạn, nước xiết, nước xoáy, nước ngược, nước xuôi... Sông nước đã trở thành một yếu tố cấu thành đặc trưng của văn hoá nơi đây.

Việc giao thương của vùng cũng mang đặc thù sông nước. Từ xưa, các trung tâm giao thương lớn của vùng đều được hình thành ven bờ sông rạch, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá: Nông Nại Đại phố, Mỹ Tho Đại phố, Sài Gòn, Cần Thơ... Đặc biệt ở miền Tây còn có các chợ nổi mà toàn bộ hoạt động đều diễn ra trên sông nước. Chợ nổi Long Xuyên (An Giang) là nơi hàng trăm ghe xuồng tụ tập để buôn bán hàng hoá nông sản như bánh canh


ngọt, lạt, bánh tầm, bánh bò, hủ tiếu, chè đậu đỏ, cà phê... Chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ) tụ họp hàng trăm ghe từ tờ mờ sáng, bán đủ loại sản phẩm miệt vườn được treo trên một cây sào cắm trước mũi ghe gọi là "cây bẹo". Người mua chỉ cần nhìn vào "cây bẹo" là biết ngay ghe bán thứ gì. Tương tự là chợ nổi Cái Bè (Tiền Giang), chợ nổi Phụng Hiệp (Hậu Giang)... Là nơi "dân thương hồ" lui tới mưu sinh, chợ nổi đã trở thành một nét sinh hoạt văn hoá rất đặc thù của miền Tây sông nước, và được ngành du lịch khai thác như một sản phẩm du lịch độc đáo dành cho du khách.

Chúng ta cũng nói về một thú vui tinh thần rất quen thuộc của người dân Nam Bộ, đó là xem hát bội, sau này với những cách tân được gọi là hát cải lương. Theo cuốn “Cá tính miền Nam” của nhà văn Sơn Nam, “nếu năm 1906 tạm được xem là khởi điểm cho phong trào nói thơ, nói truyện lần hồi lan rộng trong giới bình dân thì đó cũng là năm khởi điểm cho phong trào đờn ca tài tử” cải lương. Đờn ca tài tử đã sống cùng với người dân Nam Bộ hơn một thế kỷ nay và đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần của người dân vùng sông nước chín rồng. Ta biết ngay chính nhà văn Lý Văn Sâm khi còn trẻ cũng đã từng mơ trở thành một soạn giả, ông cũng đã viết một số vở cải lương và rất thần tượng nhà viết kịch Trần Hữu Trang. Cải lương ngày xưa có Tình anh bán chiếu, Dạ cổ hoài lang, Đời Cô Lựu, …còn cải lương ngày nay bên cạnh những tích vở cổ thì còn đi vào cả đời sống hàng ngày của người dân với những vấn đề sớm hôm họ phải giải quyết. Trong bài Nhịp sống cải lương Nam Bộ của tác giả Lê Xuân có viết như thế này: “Ở đồng bằng sông Cửu Long, các thuyền văn hóa, xe lưu động của các đội tuyên truyền văn hóa quận, huyện, phường, xã vẫn tới nhiều địa điểm bến sông, bãi chợ để ca vọng cổ và diễn các vở cải lương ngắn tuyên truyền các ngày lễ lớn hay các cuộc vận động cho một chủ trương, đường lối chính sách nào đó của


Đảng và Nhà nước. Chỉ cần ca hai câu vọng cổ là đã tập hợp được rất nhiều quần chúng và sau đó các tuyên truyền viên mới vào cuộc…Tới các điểm du lịch sinh thái ở miệt vườn hay tới các quán ca cổ ở đồng bằng sông Cửu Long ta sẽ thấy không khí đờn ca tài tử rất sôi nổi và mùi mẫn. Về ẩm thực, món ăn Nam Bộ đặc sắc ở chỗ nó được tạo ra, mang sắc thái riêng, hương vị ngọt ngào riêng bởi hơi đất miệt vườn mênh mông, vị ngọt sông rạch ào ạt dâng tràn mùa lũ, khí trời lồng lộng gió biển Tây Nam, cái uy nghi thâm u của lớp lớp rừng già đồi núi nơi đây. Đó chính là “nguyên liệu” đầu tiên, chỉ có cho ẩm thực vùng châu thổ này, nơi đã trở thành “đất lành chim đậu”, mưa thuận gió hòa, ngày càng trù phú, phồn thịnh: “Ruộng đồng mặc sức chim bay/ Biển hồ lai láng một bầy cá đua”. (Ca dao Nam Bộ).

Ẩm thực Nam Bộ (và Việt Nam) ẩn chứa sức mạnh văn hóa nặng lắm. Nó không chỉ liên kết không gian, thời gian; truyền thống, hiện đại mà cả tâm linh, tư tưởng con người nữa. Nói về tính cách cũng như cách đối nhân xử thế của con người, có thể thấy điểm nổi trội nhất của người Nam Bộ là cách suy nghĩ bộc trực, phóng khoáng; lối sống “xả láng sáng về sớm” và luôn “chơi hết mình” vì người khác. (Thật ra về những những nét tính cách này của người Nam Bộ, không phải người Việt Nam sống trên các vùng, miền khác không có, nhưng ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến những nét nổi trội và ưu thế nhất góp phần làm nên cá tính riêng của con người ở mỗi vùng, miền…trên lãnh thổ ta mà thôi). Bên cạnh đó, người Nam Bộ trong suy nghĩ và lời nói cũng thể hiện một cái gì đó rất bộc trực và thẳng thắn. Nói như nhà văn Sơn Nam đó là “tinh thần phóng khoáng thực tế, ghét những lí luận quanh co. Cứ nói thẳng để xem chuyện đó ra sao. Muốn gì thì nói phứt nó ra. Họ ghét những cuộc tranh luận về lí thuyết chính trị hoặc lí thuyết siêu hình, và có thành kiến cho rằng kẻ dùng quá nhiều lí luận là “lẻo mép”, gian xảo.


Họ thích nói chuyện vui, chuyện có đầu có đuôi, những giai thoại khôi hài. Nói “lí luận” là “buồn ngủ”. Nói chuyện quanh co là kém thành thật” [4]. Người Nam Bộ, vì thế, trong giao tiếp ứng xử có người cho rằng họ nói chuyện có khi “bụm miệng không kịp” vì chuyện gì cũng “huỵt tẹt” cũng “bốp chát”, “rổn rảng”, “có sao nói vậy”… điều này đã góp phần hình thành nên một thứ ngôn ngữ rất đặc trưng trong giao tiếp, nói năng của người Nam Bộ. Những tính cách này của người Nam Bộ không thể nói là không có ảnh hưởng đến văn Nguyễn Ngọc Tư. Cả về nhân vật, giọng văn, ngôn từ…trong truyện Nguyễn Ngọc Tư dễ thấy bóng dáng “tính cách Nam Bộ”.

Nguyễn Ngọc Tư, ngay từ những trang viết đầu tiên, người đọc đã cảm nhận được đây là nhà văn có giọng điệu Nam Bộ đặc sệt. Có nhà văn đã từng nhận xét: “Văn của Ngọc Tư mang đậm chất Nam Bộ: hồn hậu, hào sảng. Văn hóa tiểu vùng khác nhau, thì sản sinh những chất văn khác nhau, sản sinh ra những tác giả khác nhau. Ở Bắc Hà không sinh ra văn của Ngọc Tư được, mà ở Nam Bộ không thể sinh ra được văn của Y Ban và Tạ Duy Anh được, tôi nghĩ thế.”[32.1]. Điều đó có thể lý giải bằng nhiều cách, nhưng có lẽ ngoài việc sử dụng tối đa phương ngữ Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư còn là nhà văn quan tâm đến những vấn đề số phận, con người của vùng đất nông thôn ở Nam Bộ. Những câu chuyện của chị kể về những số phận, con người mang đậm chất Mũi Cà Mau, mang một hơi thở, sức sống riêng của mảnh đất địa đầu Tổ quốc.

Đọc truyện của chị, người đọc sẽ cảm nhận được chất Nam Bộ thể hiện khái quát ở nhiều phương diện của tác phẩm. Đầu tiên là một không gian Nam Bộ với nhiều loại cây quen thuộc của mảnh đất này: “mắm, đước, sú, vẹt, bần, tra, tràm, choại, quao, ô rô, dừa nước…”; với những vàm, kinh, rạch chằng chịt, mà tên gọi cũng gợi trí tò mò, tìm hiểu ở người đọc: “vàm Cỏ Xước,


Vàm mắm, kinh Cỏ Chác, kinh Mười Hai, kinh Thợ Rèn, Rạch Mũi, Rạch Ráng, Rạch Ruộng, Xẻo Mê, Xẻo Rô, Lung Lớn, Gò Cây Quao…”; hay những tên ấp, tên làng, tên chợ nhiều chất Nam Bộ: “xóm Xẻo, xóm Rạch, xóm Kinh Cụt, xóm Miễu, chợ Ba Bảy Chín, Cái Nước, Trảng Cò, Đất Cháy, Mút Cà Tha…”. Nhân vật trong tác phẩm của chị cũng là những con người Nam Bộ với những cái tên hết sức bình dị, chân chất, đặt tên theo thứ tự, và cách xưng gọi thứ kết hợp với tên: Hai, Ba, Tư, Chín, Út…; Tư Nhớ, Năm Nhỏ, Sáu Đèo…họ mang những tâm tư, nguyện vọng cũng hết sức nhỏ bé, đời thường. Đó là những con người sinh sống bằng những ngành nghề cũng gắn liền với quê hương sông nước Nam Bộ, như: nghề sông nước, nghề nuôi vịt chạy đồng, nghề theo gánh hát,… ngoài những ngành nghề truyền thống: làm ruộng, làm rẫy, đan lát…

Như vậy, có thể nói do được sống và lớn lên trên mảnh đất Nam Bộ, những nét tính cách trong văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của cha ông đã ăn sâu vào tiềm thức của Nguyễn Ngọc Tư. Vì thế, khi sáng tác, những nét văn hóa “rặt Nam Bộ” ấy đã đi vào trang viết của chị một cách tự nhiên như một điều tất yếu không thể nào khác được. Nó cũng là một phần làm nên sức hấp dẫn của các tác phẩm Nguyễn Ngọc Tư, tính truyền thống, giản dị, hồn hậu nhưng có bản sắc rất riêng là điều ai cũng thấy ở truyện Nguyễn Ngọc Tư.

1.2.2. Trong “đội ngũ” các nhà văn Nam Bộ

Nguyễn Ngọc Tư thuộc vào số các nhà văn Nam Bộ. Các sáng tác của họ hấp dẫn chị, và trong môi trường văn học ấy chị cũng có vị trí riêng của mình. Ở đây lướt qua mấy nét về đội ngũ các nhà văn Nam Bộ, các nhà văn thuộc một vùng văn hóa, văn học là những con chim bay ra từ cùng một tổ. Ở phần này chúng tôi đề cập đến vài nét của phong cách văn học Nam Bộ tiêu biểu qua Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Quang Sáng và Sơn Nam.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 02/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí