mới có dịp bộc lộ dễ dàng hơn, bức bách hơn. Sự thật trần trụi ấy được bộc lộ qua triết lí “ miếng ăn”. Trước kia Sinh vẫn cho rằng “miếng ăn là một sự không đáng kể”,nhưng lúc này chàng mới thấy “cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào”[47. tr 91]. Như nhân vật trong tác phẩm Lão Hạc của nhà văn Nam Cao đã nói rằng khi người ta bị đau chân, thì khó có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài cái chân đau của mình. Cái đói quặn thắt ruột gan khiến Sinh khó có thể nghĩ đến điều gì khác ngoài những ao ước tầm thường. Những nhân vật trí thức tiểu tư sản luôn mang nặng tâm lí bi quan yếu thế trước cuộc đời chung rộng lớn, quay trở về với cuộc đời riêng tù túng chật hẹp. Họ sa vào những vụn vặt đời sống hàng ngày. Điều này cũng có những nét gần với những nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, Nguyên Hồng. Trong Sống mòn, Thứ, San, Oanh, những con người chôn vùi cuộc đời mình ở một trường tư nghèo nàn ở ngoại ô Hà Nội cũng sa vào những chuyện nhỏ nhặt tầm thường mà trước đây họ từng khinh bỉ, “những bữa ăn họ cãi nhau toang toang như họp làng”. Bữa ăn được tính toán một cách chi li, “cả hai người mới được bốn hào, chưa đến năm hào, độ bốn hào với sáu xu gì đó”. Vì cuộc sống khó khăn, nghèo túng đã làm cho họ trở nên bần hàn, làm cho lương tâm họ khô héo. Nghèo khổ đã làm thui chột những hoài bão muốn vươn lên bằng tài năng chân chính của mình và đầy họ tới hoàn cảnh sống mòn.
Những bi kịch tâm trạng do tác động của hoàn cảnh sống ở người trí thức tiểu tư sản cũng khá rõ nét trong tác phẩm của Thạch Lam. Vì thất nghiệp, nghèo túng, không còn lối thoát nào khác, Bào trong Người bạn trẻ đã phải tìm đến cái chết khi chưa đầy 20 tuổi. Trước khi đến với cái chết, người thanh niên ấy đã từng phải trải qua những giờ phút hoang mang day dứt và tuyệt vọng. Ở trường hợp Sinh trong Đói, nhân vật không rơi vào cái chết, nhưng tình thế thảm hại và đau xót hơn nhiều. Trước sự phản bội của người vợ mà mình vẫn hằng tin yêu, Sinh cảm thấy “một nỗi buồn rầu chán nản vô
cùng...trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạ lùng như thắt lấy ruột gan”. Nhưng mà thảm hại hơn trước sự dày vò của cái đói, Sinh đã ăn vụng trộm, những miếng bánh, thịt ướp mà trước đó chàng đã hất đi và nguyền rủa. Ở đây nhân vật đã đặt sự tồn tại lên trên nhân cách. Đó là những tín hiệu đầu tiên, tuy còn rất mong manh và mang tính dự báo của quá trình tha hoá, biến đổi nhân tính con người do tác động của hoàn cảnh. Bi kịch tâm trạng đã trở nên khá phổ biến ở trí thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Những cái tầm thường, hàng ngày, hàng giờ gặm nhấm, tàn phá tâm hồn con người. Vì một miếng ăn, một nhu cầu vật chất tầm thường mà con người ta có thể đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm. Cảm giác của Sinh sau hành động động hèn mạt của mình, “một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt khóc nức nở”, là biểu hiện của một bi kịch không lối thoát. Đọc Đói ta liên tưởng đến một truyện ngắn khác của Nguyên Hồng. Truyện Miếng bánh, ở đây có một cảnh tương tự truyện ngắn Đói. Hưng nhân vật chính của truyện- sau khi không kiềm chế nổi lòng mình đã giấu vợ miếng bánh, và từ đó anh sống trong tâm trạng ân hận nhục nhã đến độ “cả cổ họng và ruột gan xoắn lại. Tâm trí Hưng nức nở. Miếng bánh nhai nhỏ ra càng như mảnh thuỷ tinh tẩm mật cá”[48. tr 253]. Cảm giác của Nguyên Hồng tàn khốc hơn nhưng dư vị chua chát có lẽ chưa đạt đến mức độ như của Thạch Lam. Bởi vì bút pháp của Nguyên Hồng chưa đạt đến độ sâu lắng như Thạch Lam.
Bi kịch tâm trạng dẫn đến biến đổi tâm tính, xuất hiện ở tất cả các trí thức tiểu tư sản trong các tác phẩm của Thạch Lam. Quanh quẩn vì miếng ăn, vì sự chi tiêu của một gia đình, Xuân trong Ngày mới, mất cả nhân tính không thiết gì vợ con và mẹ già. Chàng như một con thiêu thân, lao vào cuộc chơi bời để tìm quên lãng. Bính trong Buổi sớm cũng vì chán nản mà lao đầu vào truỵ lạc “chàng chơi mãi cho của cải hết, nhà cửa bán dần và sức khoẻ của chàng ngày một mất đi. Một sự chua chát thấm vào tâm hồn chàng, một sự chán nản
cho mình và cho người khác. Có lẽ nỗi thất vọng trước sự tan vỡ những mộng tưởng cao quý và đẹp đẽ trong đời chàng đã đẩy chàng xuống vực sâu”. Khi những ước vọng khiêm tốn bị đổ vỡ trước thực tế phũ phàng thì những con người ấy rơi vào bi kịch vỡ mộng. Đó là những bi kich điển hình của Văn học phương Tây. Văn học Việt Nam trước Cách mạng, kiểu nhân vật trí thức tiểu tư sản của Nam Cao cũng mang nhiều bi kịch, nhiều nỗi đau sâu sắc. Với kiểu nhân vật người trí thức nghèo Thạch Lam vẫn chưa tạo được những kiểu nhân vật như vậy mang tính điển hình cao.
Trong tác phẩm của Thạch Lam, tâm lí của những nhân vật trí thức được miêu tả rất tỉ mỉ. Bởi lẽ đó là những nhân vật, những con người có đời sống tâm hồn hết sức phong phú. Trong tác phẩm Một cơn giận, vì sự vô cớ cáu giận của nhân vật Thanh mà cả gia đình nhà bác phu xe đã lâm vào cảnh vô cùng khốn khó, điều đó khiến anh day dứt mãi không thôi “Hình như có một cái gì đè nặng lên ngực làm cho tôi khó thở và lúc này hình ảnh anh phu xe cũng hiển hiện ra trước mắt”[47. tr64].ở đây cho ta thấy người trí thức trong một lúc nào đó những người trí thức vẫn loay hoay với những suy nghĩ về bản thân mình. Và sau rất nhiều hối hận Thanh trong Một cơn giận đã tự nhủ thầm “người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng”. Cái cách nhìn sâu vào trong tâm hồn, đúc rút những quy luật và phanh phui mọi góc cạnh của nó để người đọc suy nghĩ và trăn trở theo nhân vật đã trở thành một đặc điểm rất riêng của Thạch Lam. Điều đó đã giúp ông khắc hoạ thành công bộ mặt của những trí thức tiểu tư sản, và các tác phẩm ông thường có tính tự truyện, bởi vì trong những tác phẩm ấy mang dáng dấp của nhà văn. Những con người trí thức đó thường vỡ mộng, cuộc sống bế tắc và họ cảm thấy thương hại chính mình. Theo nhận xét của ông Đỗ Đức Thu- người bạn rất thân của nhà văn “Thạch Lam là người giàu tình cảm, chỉ vì trường đời tạo cho anh cái thái độ dè dặt, bắt anh phải sống cái đời con ốc trong một vỏ kín bưng. và cái tâm hồn phong
phú, cái đời tâm tưởng rồi rào ấy đã có lần cởi mở với thế nhân để rồi chịu những thương tích nó làm giảm dần lòng tin ở người đời”[47. tr20].
Khi so sánh kiểu nhân vật này của Thạch Lam với các nhà văn khác như Nam Cao chúng ta thấy có những điểm gần gũi, nhưng khác với các nhân vật trong tác phẩm của Nam Cao, người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm của Thạch Lam chưa có được những giằng co để vươn lên và cũng chưa bao giờ phê phán mình một cách chân thành. Những nét tâm lí này được nhà văn Thạch Lam khai thác, nhưng đang ở chỗ là những khoảnh khắc chứ chưa phải là những mâu thuẫn dồn nén. Đây cũng là một đặc điểm riêng của Thạch Lam. Từ những đặc điểm đó ta thấy Thạch Lam thường thành công với việc xây dựng những nhân vật thoáng qua hơn là những nhân vật những suy tư, đấu tranh sâu sắc. Chính vì vậy mà hình tượng người trí thức tiểu tư sản trong tác phẩm của Thạch Lam còn thiếu sức mạnh về sự khái quát và nâng cao, những nhân vật đó thường có chung một nguyên mẫu, một suy nghĩ và một kiểu tư duy bế tắc. Và những nhân vật đó thường mang đậm dấu ấn của chính nhà văn, phảng phất tâm hồn Thạch Lam. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã nhận xét “Tất cả những nhân vật trong truyện ngắn của Thạch Lam đều có những cái phảng phất của tâm hồn Thạch Lam”. Điều này vừa là đặc điểm riêng, đồng thời cũng là hạn chế của Thạch Lam thể hiện rõ nét trong những tác phẩm viết về người trí thức.
Kiểu nhân vật người dân nghèo.
2.2.1 Những người dân nghèo.
Có thể bạn quan tâm!
- Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam - 2
- Con Người Và Sự Nghiệp Văn Chương Của Thạch Lam.
- Kiểu Nhân Vật Người Trí Thức Tiểu Tư Sản.
- Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Thạch Lam - 6
- Thời Gian Nghệ Thuật Trong Truyện Ngắn Thạch Lam
- Quan Niệm Về Không Gian Nghệ Thuật
Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.
Trong những tác phẩm truyện ngắn của Thạch Lam, những truyện ngắn viết về người dân nghèo chiếm một tỉ lệ khá lớn. Họ là những người nông dân nghèo lam lũ vất vả, hay những con người sống kiếp lầm than nơi thành thị. Đó là hình ảnh người mẹ nghèo xóm Đoài thôn Nhà mẹ Lê, là gia đình người phu xe cùng khổ ở ngoại ô Hà Nội trong Một cơn giân, hay cô gái nghèo phải
đi ở để trả món nợ truyền kiếp trong Đứa con ...Những truyện ngắn viết về đề tài này của Thạch Lam viết trong bối cảnh lịch sử dân tộc đang trong thời kỳ mặt trận dân chủ 1936-1939. Những năm đó cách mạng Việt Nam đang sôi sục khí thế đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Chính vì vậy những tác phẩm ra đời trong thời gian này cũng ít nhiều bị chi phối bởi bối cảnh lịch sử. Cho nên trong giai đoạn này người nông dân đã xuất hiện nhiều trong các tác phẩm văn học. Ngay trên tờ báo Ngày nay cũng xuất hiện một chuyên mục “Bùn lày nước đọng“ chuyên viết về dân quê. Từ năm 1937 Tự lực văn đoàn bắt đầu tặng giải thưởng cho những tác phẩm giàu tính hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Kim tiền của Vi Huyền Đắc. Báo Ngày Nay đăng Con trâu và Sau luỹ tre của Trần Tiêu, hồi kí Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Năm 1939 bàn về đạo làm người Hoàng Đạo có viết trong Mười điều tâm niệm : “Con người phải sống có lí tưởng và điều có ích cho xã hội“. Tinh thần dân tộc, thái độ phê phán bọn địa chủ quan liêu, bóc lột, sự cảm thông chân thành đối với những nỗi khổ cực của người dân quê sau luỹ tre xanh được thể hiện trong tác phẩm Đoạn tuyệt (1934-1935), Tối tăm, Đôi bạn của Nhất Linh...Những sự kiện như vậy chứng tỏ rằng số phận của những người bình dân cũng là một điều băn khoăn đối với các nhà văn chủ nghĩa lãng mạn nói chung và Tự lực văn đoàn nói riêng. Trong số những nhà văn ấy thì Thạch Lam được người đọc nhìn nhận khác các bạn văn của ông như: Nhất Linh, Hoàng Đạo. Bởi có lẽ những người dân nghèo thành thị hay thôn quê xuất hiện trong tác phẩm của ông, không phải là một sự a dua chạy theo xu thế của các nhà văn đương thời, mà hình tượng nhân vật nay xuất hiện khá lâu trong tác phẩm của ông. Nhưng điều quan trọng hơn là hình tượng nhân vật này trong các tác phẩm của Thạch Lam được ông miêu tả, giới thiệu một cách cặn kẽ với một tình cảm yêu thương chân thành. Như vậy cũng không thể quy kết các nhà văn Tự lực văn
đoàn là giả dối, hay là cơ hội chủ nghĩa, nhưng trong lĩnh vực này chúng ta phải thừa nhận Thạch Lam là người thành thực hơn cả. Chính nhà văn cũng đã từng phát biểu về vấn đề này “Ít lâu nay, những tiểu thuyết viết về dân quê khá nhiều. Một số nhà văn, vì theo thời thượng hay vì một cái sở thích văn chương đột ngột đã từ bỏ những nhân vật phi thường hay lãng mạn để quay đầu nhìn về người nhà quê chân lấm tay bùn trên thửa ruộng. Người này trở nên nhân vật chính trong tác phẩm của họ”. [49. tr 48]. Khác với họ ngày từ những sáng tác đầu tay của mình, Thạch Lam đẫ hướng về người nghèo với một tình cảm chân thành. Hình ảnh người dân nghèo hiện lên với những nỗi nghèo khổ thật đa dạng. Đó là câu chuyện thương tâm của một gia đình đông con nghèo khổ. Người mẹ của đàn con đói nghèo khổ vì không có miếng ăn phải đi ăn xin bị nhà giàu xua chó cắn dẫn tới cái chết thương tâm Nhà mẹ Lê. Đó là cảnh khốn cùng của gia đình người phu xe nghèo, không đủ tiền nộp phải trốn biệt xứ để lại mẹ già, người vợ nheo nhóc và đứa con sài chết vì không có nổi một đồng xu mua thuốc, là một tiếng kêu bi thương tha thiết “Trong cái hang tối tăm bẩn thỉu ấy sống một đời sống khốn nạn những người gầy gò, người con gái sống kiếp tôi đòi cũng được miêu tả thât cụ thể”. “Chị Sen cúi mình dưới gánh nước nặng trĩu, lách cửa bước vào những bước khó nhọc và chậm chạp. Cái đòn gánh cong xuống và rên rỉ trên vai, nước trong thùng sánh toé ra mỗi bước đi” [50 tr 75 ]. Mặc dù phải làm việc đến kiệt sức, người con gái tội nghiệp ấy vẫn phải thường xuyên chịu những cơn thịnh nộ của bà chủ. Ở truyện ngắn Cô hàng xén, sau khi lấy người chồng nghèo, gánh nặng gia đình quá lớn với gia đình đã khiến cuộc đời trở thành một sự đoạ đày đối với một có gái vốn dĩ là xinh đẹp và đáng yêu. Quanh năm suốt tháng lam lũ, mà cái nghèo vẫn không buông tha. Cuộc đời của những con người ấy chỉ là chuỗi dài những vất vả lo toan dường như vượt quá sức chịu đựng của họ.
Trong những trang viết của mình, sự thành thực là một tiêu chí mà Thạch Lam luôn tâm niệm trong quá trình sáng tác. Vì vậy, ông đã lên tiếng phê phán những nhà văn lãng mạn chỉ biết lí tưởng hoá nông thôn và ca ngợi cái thi vị của công việc đồng áng. Ông viết trong tiểu luận Theo dòng “ Một cái tục lệ khác là vẻ nên thơ của công việc đồng áng. Nên thơ với nhà văn đứng xem, phải. Nhưng sự thực không có công việc nào vất vả nặng nhọc bằng. Bình minh tươi đẹp chỉ là còi hiệu bắt đầu làm việc” [49 tr 50]. Sự thật ẩn đằng sau luỹ tre có vẻ thơ mộng ấy là những kiếp người sống đày đoạ khổ cực trăm bề của người nông dân. Không những họ khổ vì công việc nặng nhọc mà còn phải chịu bao nhiêu áp bức bất công trong xã hội. Những cảnh khổ sở đớn đau ấy người đọc có thể bắt gặp đâu đó trong các tác phẩm của Thạch Lam. Điều đáng nói ở đây là sự thành thực mà nhà văn tâm niệm không phải chỉ thuộc vào ý nghĩ chủ quan của nhà văn, mà nó có một cơ sở thực tế vững chắc. Đó là sự hiểu biết khá đầy đủ về đối tượng miêu tả của nhà văn. Tuy là nhà văn trong một trường phái văn học lãng mạn, nhưng Thạch Lam lại có điều kiện gần gũi và đồng cảm với người lao động nghèo. Bản thân nhà văn cũng đã từng nếm trải bao nỗi cay đắng chua chát của cuộc đời người trí thức nghèo có đầu óc những túi thì luôn trống rỗng. Như vậy có thể nói Thạch Lam có một vốn sống, một vốn hiểu biết khá sâu sắc về người lao động nghèo. Chỉ một nhận xét nhỏ của ông cũng chứng tỏ ông am hiểu tâm lí của những người nông dân “Sự thực người nhà quê chỉ yêu quý ruộng đất chừng nào họ là chủ ruộng đất ấy thôi. Và khi người nhà quê từ chối không chịu bỏ làng ra tỉnh hay đi nơi khác kiếm ăn ấy là vì sự giàng buộc của những thói quen sinh hoạt, những thói quen vật chất hay tinh thần hơn là lòng tha thiết với đồng ruộng” [49 tr50]. Chính vì nhà văn là người cũng đã từng sống trong cảnh nghèo khổ cho nên Thạch Lam mới hiểu và thông cảm cho cuộc đời của những con người nghèo khổ. Ông hiểu và thông cảm cho cuộc sống bấp bênh
không có tương lai của họ. Đó chính là điểm khác biệt giữa Thạch Lam và các nhà văn trong Tự lực văn đoàn.
Những con người nông dân suốt ngày vật lộn với miếng cơm, manh áo hiện lên khá chân thực trong truyện ngắn Nhà mẹ Lê của Thạnh Lam. Cái đói gõ cửa từng nhà người dân nghèo ngụ cư như bác Hiền, bác Đối và nhất là nhà mẹ Lê. Đối với cái gia đình chưa bao giờ sung túc này thì những ngày nhịn đói liên tục đã trở nên bình thường và thường xuyên, không lối thoát. Mặc dù dứt ruột vì thương con vì cái đói, cái rét hành hạ, đến nỗi thịt da thâm tím lại như thịt con trâu chết, người mẹ khốn khổ ấy vẫn không sao kiếm được việc làm khả dĩ có thể kiếm chút ăn cho chúng cầm hơi. Có thể nói, vấn đề miếng cơm manh áo đã xuyên suốt truyện ngắn của Thạch Lam. Cái nghèo khổ truyền kiếp như thấm sâu vào trong cuộcc sống của những người dân lao động. Nó như một cái nợ ám ảnh, đeo đẳng suốt cuộc đời họ, “Bác Lê tưởng nhớ lại cả cuộc đời mình từ lúc bé đến bây giờ chỉ toàn là những ngày khổ sở nhọc nhằn. Cái nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác. Lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi và từ đấy nó cứ theo liền bác mãi” [47 tr 36]. Cái chết của bác Lê là sự vận động tất yếu của những kiếp người lầm than. Nó để lại trong lòng người đang sống những nỗi ám ảnh, nhưng với người chết có lẽ đó là một sự giải thoát, để thoát khỏi kiếp sống lầm than.
Như vậy trong các tác phẩm của Thạch Lam hình ảnh người nông dân nghèo ở thành thị và nông thôn chiếm một vị trí khá quan trọng. Nhà văn có một tình thương dành cho số phận của những con người nghèo khổ bất hạnh. Nhân vật người dân nghèo trong tác phẩm của Thạch Lam thường là những nhân vật chính diện, còn những kẻ nhà giàu thường mang tính cách xấu xa. Hoặc nhân vật có tính cách địa chủ như trong truyện Đứa con, tàn bạo như cụ Bá trong Nhà mẹ Lê, ngốc nghếch như Bân trong Sợi tóc. .. Lòng căm ghét những kẻ giàu có nhưng xấu xa của Thạch Lam tuy âm thầm, nhưng dữ dội,