Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải trong tiểu thuyết sau 1980 qua ba tiểu thuyết: Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười - 13


tồn tại của nó. Khi triết lí của thời đại không trùng hợp với triết lí nhà văn ,tác phẩm có thể chưa được chấp nhận, thậm chí có thể bị ruồng bỏ. Sự tương đồng giữa triết lí nhà văn và triết lí thời đại tiêu biểu cho các sáng tác của Nguyễn Khải giai đoạn đầu, sự không tương đồng còn ở giai đoạn cuối.

Với nhưng sáng tạo độc đáo điểm nhìn nghệ thuật, Nguyễn Khải đã không ngừng cách tân kĩ thuật sáng tạo tiểu thuyết hiện đại. Ông đã nâng tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới lên một tầm cao mới mang tính hiện đại. Chính vì vậy tiểu thuyết triết luận của Nguyễn Khải được đánh giá cao và được bạn đọc hào hứng đón nhận. Những cống hiến về nghệ thuật của Nguyễn Khải cho văn học Việt Nam đương đại là rất lớn. Ông xứng đáng là những đàn anh mở đường cho văn học Đổi mới.

3.2. NGÔN NGỮ CHỦ THỂ

3.2.1. NGÔN NGỮ ĐỐI THOẠI NỘI TÂM

Trong tiểu thuyết Nguyễn Khải có nhiều đối thoại, nhiều nhất là đối thoại bên trong, đối thoại nội tâm. Nguyễn Khải ít chú ý đến tính cách nhân vật thông qua hành động mà ông sử dụng ngôn ngữ đối thoại như một phương tiện giúp nhân vật trể hiện rõ tính cách, đặc biệt là những quan niệm, triết lí về tư tưởng, con người, cuộc sống, các vấn đề chính trị xã hội.

Thời gian của ngườilà cuộc đối thoại mang tính thời đại. Cuộc đối thoại của những con người có một quá khứ đẹp đẽ với thực tế cách mạng: Quân, chị Ba Huệ, ông Hai Riềng, linh mục Vĩnh. Họ là cái sợi dây nối quá khứ lịch sử với thời hiện đại và tương lai của dân tộc. Trong cuộc gặp gỡ đối thoại ấy mọi người đều nói. Họ triết lí trong cái chiều sâu của lịch sử, triết lí về đạo đức, nhân sinh, về ý nghĩa của thời gian với sự sống con người. Ngôn ngữ chung ở Thời gian của người là lời đối thoại của các nhân vật thường kéo dài có khi triền miên. Trong đối thoại các nhân vật ít sử dụng yếu tố đưa đẩy, mà chủ yếu là lời kể chuyện theo giọng tâm sự. Quân kể cho mọi người


nghe về hai lần gặp gỡ linh mục Vĩnh, lời kể của Quân là sự khắc họa bức chân dung của một linh mục yêu nước, niềm tin mãnh liệt nhất cao hơn chúa là tôn giáo dân tộc. Cuộc đối thoại giữa Quân và Vĩnh là cuộc đối thoại giữa cách mạng và tôn giáo, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa thiện và ác.

Anh Quân hỏi lại: Vậy một mẫu người hung ác có khả năng gieo mầm bệnh vào tương lai không? Chắc chắn là có. Bên cạnh Chúa có Quỷ, bên cạnh Phật có Ma. Ma cũng dự phần bất tử để làm mặt đối lập, để thế giới này tiếp tục vận động và tồn tại. Cái thiện chưa thể tiêu diệt hoàn toàn vĩnh viễn được cái ác nó luôn luôn chỉ hơn cái ác nửa vòng bánh xe thôi. Thế giới vẫn tồn tại và phát triển, con người mỗi ngày tự do hơn, hạnh phúc hơn là nhờ nửa vòng bánh xe lấn lên ấy…

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.

Anh Vĩnh nói, quyền lực của cái Ác bây giờ cũng ghê gớm lắm, có khả năng hủy hoại hành tinh trong vài ngày. Nhưng may mắn thay cái thiện đã có trong tay một quyền lực vật chất rất mạnh đủ sức để ngăn chặn và tiêu diệt nó tận gốc…

Quân vừa đùa vừa nói thêm: “vẫn hơn nhau nửa vòng bánh xe thôi…” [46,113].

Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khải trong tiểu thuyết sau 1980 qua ba tiểu thuyết: Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cười - 13

Một cuộc đối thoại khác:

“Quân hướng về phía anh Vĩnh nói tiếng:

- Theo tôi, các tôn giáo phải tự được giải phóng ra khỏi ám ảnh về quyền lực thì mới tồn tại được, kể cả quyền lực về tinh thần. Phải là lĩnh vực bình đẳng nhất, tự do nhất, dân chủ nhất, người ta chỉ đến với tôn giáo bằng tình yêu, bằng trái tim, bằng những suy ngẫm cao cả về cuộc sống của bản thân trở nên siêu Việt. Đừng đem chủ nghĩa cộng sản ra mà hù dọa các tín đồ, vì kẻ thù chính của tôn giáo là mặt đối nghịch với nó, là quyền lực. Quyền lực sẽ chia xẻ họ ra căm giận và thù hằn giữa các hệ phái, là mầm mống hủy diệt nếu những người lãnh đạo các tôn giáo không kịp thời ngăn chặn…


- Anh Vĩnh ngắt lời:

- Chủ nghĩa xã hội có khả năng ngăn chặn chiến tranh không?

- Không chỉ ngăn chặn mà còn tiêu diệt mọi nguồn gốc của chiến tranh, Quân nói: Vì mục tiêu của chủ nghĩa cộng sản là xóa bỏ mọi quyền lực, kể cả chính nó trên cơ sở những thay đổi triệt để và cơ cấu kinh tế xã hội …” [46,114].

Trong Thời gian của người các nhân vật đối thoại chứ không tranh luận, là cuộc đối thoại trong ngôn ngữ chung vừa trong trạng thái hưng khởi, vừa trí tuệ sắc sảo, vừa dạt dào cảm xúc và chất chứa suy nghĩ của nhân vật.

Một cõi nhân gian bé tílà cuộc đối thoại của những con người trong quá khứ lầm lạc mang tính lịch sử với những con người trong cuộc sống hiện tại. Trong tiểu thuyết này Nguyễn Khải sử dụng lớp ngôn ngữ mang phong cách ngôn ngữ sinh hoạt, các cuộc đối thoại dân dã hàng ngày với lớp từ bình dân. Đối thoại vừa thúc đẩy tiến trình kể chuyện vừa là điểm chuyển đổi trong điểm nhìn trần thuật. Ông Vũ một con người của lịch sử với bao hoài bão, ý chí tung hoành nhưng sự lựa chọn thực hiện lí tưởng đó lại lầm lạc. Ông là người lãnh đạo của Việt Nam Quốc dân đảng, từng là chủ tịch của Việt Nam Quốc dân đảng thời Mĩ - Ngụy. Mọ Vũ bị chính quyền cách mạng bắt giam và cuối đời đưa về quản thúc tại quê nhà. Bây giờ mọ Vũ đã hơn 90 tuổi, một ông già sống dựa vào đứa con gái 70 tuổi hai người già hầu hại lẫn nhau. Cái chí hướng lầm lỗi của mọ Vũ đã trở thành oan nghiệt cho các thế hệ con cháu sau này phải mang cái lí lịch gia đình có người phản động. Hải cháu ngoại kiên quyết không cho mẹ chăm sóc ông, không muốn hầu hạ hai người già. Cuộc đối thoại giữa Hải với mẹ và mọ Vũ là cuộc đối thoại gay gắt nảy lửa giữa hai thế hệ

“Thấy Hải nó bảo: “Tại sao tôi phải chịu trách nhiệm về khuynh hướng chính trị của mọ, từ nhỏ tới lớn tôi đã gặp mọ bao giờ, mọ làm những gì tôi cũng chỉ nghe kể lại chứ làm sao tôi biết. Tôi không biết một tí gì sất, lại bắt tôi phải chịu trách nhiệm về những cái tôi không được biết? Vô lí! …


- Vậy chúng mày hãy giết tao đi cho nhẹ nợ. Tao gây ra mọi tội lỗi, giết tao đi! Tao già rồi có chết cũng đáng.

- Chúng tôi giết ông? Thế thì cả nhà này phải ngồi tù, chưa biết đến năm nào mới được ra. Ông sống đã làm khổ con khổ cháu, ông chết đi còn làm khổ hơn. Là họ sẽ vu cho chúng tôi giết ông để bịt đầu mối. Thằng phản động trẻ giết thằng phản động già để lão ấy khỏi phun ra những điều bí mật. Là chuyện chính trị chứ không phải chuyện trong gia đình. Nguy hiểm lắm! …”[46,426]

Đan xen trong cuộc đối thoại đó là cuộc đối thoại của nhà văn với cuộc sống và hiện tại và những mặt trái của nó. Cuộc thẩm vấn của Chính với bị cáo phạm tội trong vụ buôn lậu trầm hương và vụ tham nhũng đã giúp nhà văn đưa ra triết lí về bản lĩnh sống của con người trong cuộc sống. Một cõi nhân gian bé tí là sự xẻ chia với những con người quá khứ với sự lầm lạc và những nhận thức về sự đổi thay của con người trong cuộc sống hiện tại. Mỗi con người đều có khả năng phạm tội nếu bản lĩnh ý chí không vững vàng trong cuộc sống.

3.2.2. NGÔN NGỮ ĐỘC THOẠI

Tiểu thuyết Nguyễn Khải sau 1980 năm trong dòng chảy của văn học Đổi mới đổi mới cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Đề tài chiến tranh dần thay thế bằng đề tài “thế sự - đời tư”, chất sử thi nhạt dần, tiểu thuyết áp sát vào đời sống. Các nhà văn được “cởi trói” họ cởi mở hơn và tự do khẳng định cái tôi, và những suy nghĩ, triết lí, quan niệm … chất kí sự và hồi kí tăng dần trong tiểu thuyết. Chính vì vậy người trần thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải sau 1980 có sự sáng tạo, cách tân quan trọng trong ngôn ngữ kể chuyện, nhằm thể hiện triết lí, tư tưởng, quan niệm của nhà văn một cách thích đáng.

Ngôn ngữ độc thoại trong Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí, Thượng đế thì cườichiếm đa số trong ngôn ngữ nói năng của nhân vật. Qua khảo sát ba cuốn tiểu thuyết này chúng tôi thấy ngôn ngữ độc thoại tồn


tại ở hai dạng chính: Lời độc thoại của người kể chuyện (tác giả) và lời độc thoại của nhân vật (thường là độc thoại nội tâm)

Ngôn ngữ độc thoại của người kể chuyện thường gắn với điểm nhìn của tác giả, mang tính phân tích cao và giàu chất triết lí. Tiểu thuyết Nguyễn Khải là tiểu thuyết “phát hiện vấn đề’, nhà văn thể hiện rõ triết lí của mình trước các vấn đề đó, chính vì vậy ngôn ngữ độc thoại có sức mạnh lớn mang tính “công phá” lớn trước “cái hôm nay” của cuộc sống.

Thời gian của người là một cuộc độc thoại lớn của Nguyễn Khải về những người lính mà gần cả cuộc đời cống hiến cho cách mạng, cho dân tộc. Trong tiềm thức của cuộc đời họ những năm đau thương, khổ cực lại là những ngày tháng đẹp nhất, họ tự hào về thời gian của đời người là sự cống hiến cho dân tộc. Nhân vật người kể chuyện xưng “tôi” đã xây dựng câu chuyện trong lời kể và cách thức kể để nhân vật gặp gỡ, đối thoại, suy nghĩ, hành động. Ngôn ngữ độc thoại được Nguyễn Khải sử dụng thường là những lời triết lí của người kể chuyện rất tinh tế. “Người ta thường hay bàn cái phần đầu của cuộc cách mạng , cái phần vui vẻ, dễ chịu, cái phần hội hè, còn phần sau thì thường xem nhẹ hoặc coi như không có. Kì thực nó mới là phần cốt lõi của mọi sự thay đổi, cái phần đòi hỏi phải kiên định, phải dũng cảm, phải tỉnh táo, phải đoàn kết hơn cả bao giờ. Nhưng một sự thật khác hơn nữa, cách mạng dù khó khăn đến đâu cũng được tiếp tục phát triển hoặc nhanh hoặc chậm, theo cái mạch đã mở, cái hướng đã chọn, những mục tiêu đã nhắm, trời có long, đất có lở cũng không thể đi chệch được. Và những giai cấp lịch sử lên án, đã thất bại, đã phải rút lui sẽ không có cách gì để trở lại, hoặc có trở lại cũng nhọ nhem, gắng gượng nhất thời để rồi bị tiêu hủy triệt để hơn mà thôi …”[14].

Ngôn ngữ độc thoại của người kể chuyện thường là những lời nhận xét đánh giá về nhân vật với ngôn ngữ trang trọng, ngợi ca lí tưởng của nhân vật với Quân: “Anh có thể tước bỏ nhiều phần máu thịt của mình, kể cả vợ con,


ngoại trừ lòng yêu nước và cái lí tưởng cách mạng anh đã lựa chọn…”[46,121], linh mục Vĩnh “Anh thuộc tạng người có khuynh hướng bẩm sinh thích dâng hiến , thích hi sinh cho đồng loại, say đắm trong viễn cảnh một dân tộc đã hòa đồng, một nhân loại đã hòa đồng, con người chỉ có một lo lắng duy nhất xứng đáng với nó là vươn tới tận Thiện tận Mĩ [46;38]. Trước kẻ thù và những âm mưu chính trị, những chính khách của chính quyền Ngô Đình Diệm dần lộ rõ bản chất ham quyền lực và mắc bệnh hoang tưởng về một “đế chế” được dựng lên bằng việc làm tay sai cho một kẻ khác (Mĩ). Sự thất bại của chính quyền Ngô Đình Diệm kết thúc bằng một lời than tuyệt vọng của Ngô Đình Diệm với đứa cháu: “Thôi thế là hết thật rồi, thuận ơi” [46,82], chấm dứt một ảo tưởng của những kẻ “nuôi giấc mộng” thực hiện một học thuyết chính trị và một thiết chế tôn giáo “thế mới biết cái bệnh vay mượn, áp đặt, giả tạo có thể tồn tại bất chấp các điều kiện chính trị, bất chấp xu hướng lịch sử đến là khó trị. Nó đã tạo ra biết bao nhiêu tội nhân và nạn nhân, nhưng đã có mấy ai nhìn cho kĩ để cảnh báo đâu. Kẻ có nhiều cuồng vọng bị sập bẫy đã đành, mà cũng đáng, ngay cả người đã nguyện diệt bằng hết tham vọng như các nhà tu hành chẳng hạn, cũng say sưa lao đầu vào guồng máy bất nhân mới thật lạ chứ …” [46,82]. Lời độc thoại của người trần thuật có khi còn là cầu nối gắn kết các nhân vật và tình huống truyện nằm trong mạch kết cấu của tiểu thuyết. Độc thoại như một biện pháp nghệ thuật vừa thể hiện quan điểm của người kể chuyện vừa định hướng cho người đọc suy nghĩ và chứng minh cho luận điểm mà nhà văn đưa ra. Ở Thời gian của người vấn đề được mọi người quan tâm là mối quan hệ giữa con người và thời gian. Con người là sinh vật kì diệu có khả năng để lại dấu ấn của nó trong lịch sử.

Một cõi nhân gian bé tí lời độc thoại của người kể khá hóm hỉnh. Ngôn ngữ độc thoại giàu hình ảnh mang tính suy luận cao trong cái “nhìn lại” của một thời quá khứ lầm lạc. Những con người như mọ Vũ đã là con


người của lịch sử, họ đã là những “xác chết” và cần phải đối xử với họ thật công băng, dứt khoát, “phải biết chôn đi cái xác chết để có thể làm việc của ngày mai một cách nhẹ nhàng [46,118]. Một cõi nhân gian bé tí ngôn ngữ độc thoại của người kể chuyện nằm trên một hệ quy chiếu thống nhất từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện tại đến tương lai. Thống nhất cùng thể hiện tư tưởng của nhà văn trước sự soi xét của hiện tại với những cong người lầm lỗi trong quá khứ và bức tranh cuộc sống hiện tại.

Thượng đế thì cười là một tiểu thuyết tự thuật, nhà văn đã hóa thân vào nhân vật “hắn”, kể về cuộc đời thực của nhà văn. Lời kể chuyện cũng chính là lời tự bạch của nhà văn cho nên tiểu thuyết này là lời độc thoại đậm tính chất hồi tưởng. Bao trùm tiểu thuyết là lời kể của người trần thuật (nhà văn, nhân vật “hắn”), về cuộc đời và sự nghiệp. Ngôn ngữ độc thoại của người kể chuyện kéo dài từ đầu đến kết thúc tác phẩm. “Hắn” nghĩ về cuộc đời mình, 70 tuổi vợ hắn lại không tin hắn nữa, hắn tìm ra căn nguyên trong sự “khủng hoảng” của cuộc sống vợ chồng. Không phải sự “khủng hoảng” đó là do sự bất đồng về quan điểm hay tiền bạc: “vợ chồng hắn về già không phải lo tiền bạc, không lo con cái, thế là sướng lắm, mà lại hóa ra có nhiều phiền muộn, vì giữa họ chưa tìm ra được cách sống hợp lí của tuổi già. [46,33] . Từ đấy hắn thực sự suy nghĩ về cuộc đời mình. Lời tự bạch, lời kể của hắn về dòng họ, về tuổi thơ ám ảnh được hiện lên chân thực. Cái ám ảnh “hắn” từ ngày xưa khi bị vu cho là ăn cắp và cảm giác mong manh phạm tội sẽ là chất liệu để Một cõi nhân gian bé tí hình thành, cuộc gặp gỡ với Dương ở nông trường Điện Biên cho ra đời Mùa lạc, chuyến về thăm gia đình ở Sài Gòn là tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm, lên Vĩnh Phú rất lâu ở một hợp tác xã để viết Tầm nhìn xa, đến vùng công giáo Nam Định, Ninh Bình Xung đột ra đời, vào Vĩnh Linh, ra Cồn Cỏ viết Họ sống và chiến đấu, Ra đảo, vào chiến trường miền Nam viết tiểu thuyết Chiến sĩ, miền Nam giải phóng xuống miền


Tây Nam Bộ viết Vòng sóng đến vô cùng, Điều tra về cái chết, tới miền Đông Nam bộ ở nông trường cao su, sống với công nhân và linh mục viết Thời gian của người….

Ngôn ngữ độc thoại kết hợp với tự sự giàu chất hồi kí đã làm cho Thượng đế thì cười làm sáng lên một hình ảnh nhà văn Nguyễn Khải chân thực đến mức vừa gần gũi vừa gân guốc, vừa thiêng liêng, vừa đời thường. Một hành trình đi tìm lại quá khứ của cuộc đời mình, một hành trình tìm lại và đánh giá thẳng thắn hoàn cảnh và “tính cách” của mỗi “đứa con tinh thần” mà mình “thai nghén” sinh ra. Thượng đế thì vẫn nhìn và cười với con người, con người vẫn suy nghĩ và hoạt động. Nhưng cái quan trọng vượt lên tất cả là lòng tin, sự cống hiến cho một niềm tin và cho dân tộc, cho những giá trị nhân văn và giá trị thẩm mĩ của văn chương.

Ngôn ngữ độc thoại nội tâm trong tiểu thuyết Nguyễn Khải sau 1980 là sự thống nhất có khi trùng khít giữa ngôn ngữ độc thoại nội tâm nhân vật và ngôn ngữ tác giả. Độc thoại nội tâm là “lời phát ngôn của nhân vật với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội tâm, mô phỏng hoạt động cảm xúc suy nghĩ của con người trong dòng chảy trực tiếp của nó” [ 15,245 ]. Nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Khải sau 1980 thường là những nhân vật nhận thức, nhân vật tư tưởng. Nhà văn đối diện với hiện thực cuộc sống và phát ngôn qua nhân vật quan điểm nhận thức của mình trước cuộc sống. Chính vì vậy lời độc thoại nội tâm là lời đúc kết những vấn đề trong cuộc sống của nhà văn như L.Tônxtôi từng nói:“Độc thoại bên trong phơi bày quá trình vận động tự thân trực tiếp của tư duy và công việc phức tạp của tình cảm” .

Ngôn ngữ nội tâm trong tiểu thuyết Nguyễn Khải là dạng ngôn ngữ đặc biệt- ngôn ngữ miêu tả ý thức tư tưởng. Dường như Nguyễn Khải muốn vươn tới dạng “tiểu thuyết đa thanh” như quan niệm của M.Bathtin: Vươn tới“ tiểu thuyết đa thanh”, đa ngôn ngữ. Nguyễn Khải tạo ra môi trường độc thoại để nhân vật

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/09/2023