Chương 3
THỰC TRẠNG PHÊ PHÁN CÁC QUAN ĐIỂM PHỦ NHẬN CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Thực trạng phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay
3.1.1. Bối cảnh và các trọng điểm phê phán
3.1.1.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
Có thể khái quát mấy nét tiêu biểu về bối cảnh trong nước như sau:
Thứ nhất việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam diễn ra đồng thời với quá trình đổi mới tư duy về CNXH.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhận Dạng Những Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam Hiện Nay.
- Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - 9
- Chủ Thể Và Thủ Đoạn Của Các Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam.
- Phê phán quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay - 12
- Những Vấn Đề Có Tính Quy Luật Và Những Vấn Đề Đặt Ra Từ Việc Phê Phán Các Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Chủ Nghĩa Xã Hội Ở Việt Nam.
- Những Vấn Đề Đặt Ra Từ Việc Phê Phán Các Quan Điểm Phủ Nhận Con Đường Đi Lên Cnxh Ở Việt Nam.
Xem toàn bộ 167 trang tài liệu này.
Những năm đầu thực hiện đổi mới, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta khá gay gắt, khó khăn chồng chất. Lĩnh vực tư tưởng, lý luận cũng xuất hiện nhiều tình huống mà Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI chỉ ra “đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ; đã mắc bệnh duy ý chí, giản đơn hóa, muốn thực hiện nhanh chóng nhiều mục tiêu của chủ nghĩa xã hội trong điều kiện nước ta mới ở chặng đường đầu tiên.” [28 - tr.27].
Đảng ta nhận định, để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến được tình hình, trước hết phải thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy về mô hình và con đường xây dựng CNXH ở Việt Nam. Như vậy, công cuộc đổi mới bắt đầu từ đổi mới tư duy về CNXH đã đưa đến nhiều thay đổi cơ bản trong quan niệm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Công việc đó là một quá trình cần nhiều thời gian nghiên cứu, vừa làm vừa đúc kết kinh nghiệm từ tổng kết thực tiễn. Hiển nhiên, nhận thức về con đường đi lên CNXH ở nước ta chưa thể rõ ràng ngay từ đầu.
Mặt khác những khó khăn, thách thức và cả những thành tựu ban đầu của đổi mới cũng khiến cho một số người có thiện chí với CNXH ở Việt Nam băn khoăn về “hướng đi” mới của Việt Nam, từ đó nảy sinh những tư tưởng hoài nghi về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Một trong những thành tựu lớn nhất của chúng ta là vận dụng những giá trị, thành quả của văn minh nhân loại để xây dựng CNXH. Song nhiều cái trong số đó lại xuất hiện, hoặc hoàn thiện ở giai đoạn văn minh TBCN. Điển hình là kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, dân chủ hóa đời sống chính trị xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế… Những điều đó khiến cho có người cho rằng, đi vào CNTB thì mới là đúng quy luật lịch sử.
Mặt khác những thách thức, khó khăn ở bước đi ban đầu của đổi mới cũng khiến những người có thiện chí với CNXH ở Việt Nam băn khoăn: phải chăng do rời bỏ CNXH đã khiến cho đổi mới ở Việt Nam sa lầy? phải chăng nên trở lại cái cũ? Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhận định: “Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao động…quy kết nguyên nhân tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai l ầm của chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường khác.”[111 - tr.04]
Hai thực tế trên khiến cho cuộc đổi mới tư duy lý luận, vừa mang sắc thái của một cuộc đấu tranh với kẻ thù, vừa là một cuộc đấu tranh trong nội bộ để làm rõ sự phù hợp thực tiễn, tính khoa học - cách mạng và tính chất XHCN của sự nghiệp đổi mới… Từ đó, mới có thể tạo ra sự nhất trí chính trị trong Đảng, sự đồng thuận của cả xã hội cùng hướng tới mục tiêu xây dựng CNXH ở nước ta.
Thứ hai, không ít những bỡ ngỡ, hạn chế, sai lầm trong thực tiễn đổi mới cũng tạo ra cơ hội cho sự chống phá con đường đi lên CNXH ở Việt Nam Các hạn chế, sai lầm của thời kỳ trước đổi mới mà Đảng ta đã thừa
nhận về đánh giá tình hình xác định mục tiêu và bước đi; về bố trí cơ cấu kinh
tế; về cải tạo XHCN, củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng các thành phần kinh tế; về cơ chế quản lý; phân phối, lưu thông và về thực hiện chuyên chính vô sản… cũng chưa thể nhanh chóng khắc phục triệt để.
Những hạn chế ở chặng đầu của cải cách, đổi mới - một sự nghiệp chưa có tiền lệ trong quá trình xây dựng CNXH, chúng ta đã phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Nhiều thiếu sót, hạn chế chúng ta cũng chưa thể sớm khắc phục: chưa kiềm chế được mặt trái của cơ chế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội đang diễn ra khá mạnh, dấu vết của cơ chế quan liêu, bao cấp vẫn chưa bị xóa bỏ, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi… Cùng với đó là sự quản lý còn yếu kém của chúng ta đã đặt ra nhiều vấn đề, thách thức với CNXH ở Việt Nam. Nhiều nguy cơ đã tăng mức độ nguy hại và ảnh hưởng tiêu cực đến tương lai của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Hiện trạng ấy đã khiến cho kẻ thù tư tưởng có cơ hội để công khai phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế từ 1986 đến nay khá phức tạp và đã đặt ra nhiều thách thức với việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Sự sụp đổ chế độ XHCN ở nhiều nước thuộc Đông Âu và Liên Xô, đã khiến cho nhiều người có thiện chí thì băn khoăn về con đường đi lên CNXH. Đại hội VII nêu rõ:
Cuộc khủng hoảng toàn diện, sâu sắc của các nước xã hội chủ nghĩa đặt chủ nghĩa xã hội trước sự phê phán gay gắt chưa từng thấy, từ nhiều hướng. Đáng tiếc là ngay trong hàng ngũ những người cộng sản cũng có hiện tượng dao động về lập trường, những khuynh hướng phủ định các thành tựu, từ đó dẫn đến phủ định con đường xã hội chủ nghĩa. [29 - tr.108,109].
Kẻ thù tư tưởng thì cho rằng đây là cơ hội tốt nhất để phủ nhận CNXH. Sau khi chế độ CNXH ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, CNXH hiện
thực bị khủng hoảng nghiêm trọng cả về lý luận và thực tiễn, hàng loạt quốc gia đang phát triển từ bỏ định hướng XHCN, tạo thêm cho CNTB lợi thế chiến lược để mở rộng phạm vi ảnh hưởng. Sự “đắc thắng” của “chủ nghĩa tự do mới” vào thập niên 80 - 90, của toàn cầu hóa TBCN…cũng như là s ự hỗ trợ cho các luận điểm chống CNXH và dường như lại giúp thêm một cơ hội cho sự chứng minh rằng CNTB là vĩnh tồn còn CNXH thì không có tương lai.
Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng hàm chứa nhiều nhân tố gây bất bình đẳng, gây khó khăn, thử thách lớn đối với các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển, với nhiều mức độ và hình thức biểu hiện mới. Những vấn đề toàn cầu xung đột khu vực, chạy đua vũ trang, xung đột sắc tộc và tôn giáo, cạnh tranh thương mại, tranh giành tài nguyên và lãnh thổ, nạn khủng bố và tội phạm xuyên quốc gia ngày càng gia tăng... buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó với tình hình nhiều phức tạp, bất trắc.
Cuộc đấu tranh để thật sự thống nhất về quan điểm, tư tưởng trong nội bộ các Đảng cộng sản về CNXH trong cải cách đổi mới cũng chưa ngã ngũ…Thực tế đó khiến cho kẻ thù tư tưởng có cơ hội để phản bác, phủ nhận con đường đi lên CNXH.
Bối cảnh quốc tế của cuộc đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa xã hội ở nước ta và cả trên thế giới đã diễn ra trong những diễn biến đầy phức tạp như vậy. Nó đặt ra khá nhiều thách thức cho cuộc đấu tranh bảo vệ con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
3.1.1.2. Các trọng điểm của cuộc đấu tranh phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH khoa học gắn liền với cuộc đấu tranh chống các quan điểm sai trái của chủ nghĩa cơ hội - xét lại, chủ nghĩa giáo điều tả và hữu khuynh và đặc biệt là chủ nghĩa cá nhân. Ở những thời điểm mà sự vận động mang tính bước ngoặt của cách mạng thì những vấn đề đấu tranh tư tưởng - lý luận càng phức tạp. Cuộc đấu tranh này
thường được triển khai trên hai hướng: đấu tranh trong nội bộ Đảng, trong quần chúng nhân dân và đấu tranh chống lại các lực lượng thù địch.
Những vấn đề có tính quy luật ấy cũng đã thể hiện ra ở các nội dung,
trọng điểm của cuộc đấu tranh này ở Việt Nam hiện nay:
Một là, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, phê phán những quan điểm xuyên tạc, chống phá.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, nó
được nghiên cứu và trải qua quá trình trải nghiệm thực tiễn cách mạng của các nhà sáng lập, với việc phát hiện ra quan niệm duy vật về lịch sử rằng: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên, và với phát hiện thứ hai - học thuyết giá trị thặng dư thì hai phát hiện vạch thời đại này là một cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử thế giới, chỉ ra quy luật phát triển của xã hội loài người, bí mật của sự vận động, phát triển của xã hội tư bản, đồng thời chủ nghĩa Mác còn chỉ ra điều kiện, cách thức, con đường và lực lượng thực hiện sứ mệnh giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người khỏi áp bức, bất công.
Hiện nay, giữa lý luận và thực tiễn về CNXH có những vấn đề cần được tổng kết, bổ sung, phát triển mới, thậm chí một số điểm cần nhận thức lại khi không còn phù hợp. Điều này là hoàn toàn bình thường đối với khoa học. Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác đã từng cho rằng, học thuyết của các ông là hệ thống mở, nó chưa phải là hoàn bị, mà nó cần được bổ sung, phát triển cùng với quá trình vận động thực tiễn.
Thực tiễn đặt ra vấn đề đối với những người XHCN phải tiếp tục nghiên cứu, vận dụng học thuyết Mác một cách sáng tạo tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước. Thực tế lịch sử đã chứng minh: khi nào và ở đâu trung thành, vận dụng đúng đắn học thuyết Mác - Lênin thì thành công, còn khi xa rời, hoặc không nắm vững những nguyên lý cơ bản thì thất bại.
Đấu tranh về hệ tư tưởng, đấu tranh về lý luận là cuộc chiến khó khăn, lâu dài và phức tạp, lại diễn ra trong điều kiện các thế lực thù địch, cơ hội không ngừng công kích, cho nên, cần nắm vững những vấn đề có tính phương pháp luận mà chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: “Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc nếu không gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thì chỉ là một câu nói rỗng tuếch.” [125 - tr.538]
Hai là, khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn con đường đi lên CNXH ở Việt Nam và phê phán các quan điểm phủ nhận trên lĩnh vực này.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, đổi mới ở Việt Nam cũng diễn ra theo quy luật đó. Bên cạnh đó, trong những thời điểm bước ngoặt của cách mạng, Đảng vẫn giữ vững và nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ về đường lối. Thực tế đã xác nhận kinh nghiệm là, khi nào Đảng phạm sai lầm giáo điều, chủ quan duy ý chí thì phong trào cách mạng gặp khó khăn, thậm chí thất bại, còn khi nào Đảng giữ vững nền tảng tư tưởng và phương pháp luận mácxít, độc lập, tự chủ, sáng tạo về đường lối thì cách mạng giành thắng lợi.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sau hơn 25 năm đổi mới, sự nghiệp cách mạng đã và đang giành những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những thành tựu lý luận và thực tiễn là sử dụng kinh tế thị trường như một công cụ để xây dựng CNXH ở Việt Nam. Đảng đã sớm khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.” [30 - tr.9-10] Tại Đại hội IX, Đảng ta chỉ rõ: “Thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.” [33 - tr.86].
Sự lựa chọn đó là một bước đột phá trong tư duy về biện pháp, cách làm để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội mới. Đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh, thu nhập của nhân dân không ngừng được cải thiện. Điều quan trọng là định hướng XHCN đã bư ớc đầu hạn chế được nhiều mặt trái của kinh tế thị trường tiêu biểu là sự phân hóa tiêu cực trong xã hội. Tăng trưởng kinh tế gắn với xóa đói giảm nghèo và giải quyết những vấn đề xã hội, góp phần làm cho mọi tầng lớp trong xã hội đều được hưởng lợi ích từ tăng trưởng kinh tế, bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội. “Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được tăng cường. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh.” [41 - tr.20]
Thực tế đó, giúp chúng ta có cơ sở khẳng định rằng: việc lựa chọn con đường XHCN và xây dựng đất nước theo con đường XHCN có cơ sở khách quan, là con đường duy nhất đúng đắn của cách mạng Việt Nam. Đây cũng là sự phản bác của thực tiễn với sự phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Kiên quyết vạch trần bản chất và thủ đoạn những tư tưởng phủ nhận con đường đi lên CNXH ở Việt Nam là nhiệm vụ hàng đầu để “nâng cao khả năng tự đề kháng trước những quan điểm, tư tưởng sai trái; khẳng định tính chủ động đấu tranh chống lại những quan điểm, tư tưởng đó…khắc phục có hiệu quả sự tấn công về lý luận, tư tưởng của các thế lực thù địch. Thường xuyên chống các biểu hiện giáo điều và cơ hội dưới mọi hình thức.” [39 - tr.105]
3.1.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của việc phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3.1.2.1 Thành tựu và nguyên nhân
Cuộc đấu tranh chống lại các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta thời gian qua đã đ ạt được những thành tựu cơ bản:
Một là, chúng ta đã bước đầu khẳng định và bảo vệ được chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam,
giữ vững được định hướng XHCN trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, qua đó khẳng định tính đúng đắn của con đường đi lên CNXH ở Việt Nam.
Việc kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, một mặt, khẳng định quan điểm mang tính nguyên tắc của Việt Nam là:
Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn; đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. [34 - tr.70]
Mặt khác, góp phần bổ sung, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam cho phù hợp với thực tế ngày càng phát triển mau lẹ, nhưng cũng đầy phức tạp.
Khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, nhấn mạnh trọng tâm là đổi mới kinh tế và từng bước kết hợp đổi mới chính trị, không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập đã thể hiện bản lĩnh chính trị và nhận thức đúng đắn của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN.
Điều quan trọng nhất là nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam đã ngày càng rõ hơn. Hiệu quả của những biện pháp xây dựng CNXH ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là rất to lớn, có sức thuyết phục. Nó không chỉ góp phần tăng thế và lực của đất nước mà còn là luận cứ thực tiễn để bác bỏ những quan điểm phủ nhận vấn đề này.
Hai là, thông qua cuộc đấu tranh, phê phán các quan điểm phủ nhận con đường đi lên CNXH ở nước ta đã nâng cao nhận thức của đông đảo cán