Thay Đổi Trong Đơn Vị Mua Sắm Hàng Dệt May Ở Mỹ

Bảng 2.2. Thay đổi trong đơn vị mua sắm hàng Dệt May ở Mỹ


Mặt hàng

Thay đổi trong đơn vị mua sắm hàng Dệt May từ giai đoạn tháng 1 - tháng tháng 6 năm 2007 đến tháng 1-tháng 6

năm 2008

Váy dài

14,4

Áo dệt kim

2,5

Áo len

0,9

Quần jeans

0,3

Áo len dài tay

0.0

Quần sooc

-1,8

Áo dệt

-2,9

Bộ ngủ

-6,1

Quần ngủ

-9,6

Váy ngắn

-21,1

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Đơn vị: %


(Nguồn: Cotton Incorporated’s Lifestyle MonitorTM)

Vì mức mua sắm hàng may mặc lớn nên Mỹ vẫn là một trong những thị trường mục tiêu cho hàng Dệt May xuất khẩu của nhiều quốc gia trên thế giới trong thời gian tới.

2.1.2.3. Xu hướng tiêu dùng

Là một quốc gia đa sắc tộc với nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội nên nước này có nhu cầu đa dạng về kiểu dáng, mẫu mã, chất lượng, thương hiệu và giá thành sản phẩm.

Chất lượng luôn là một trong những yếu tố quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng Mỹ. Gần đây, họ có xu hướng mua sắm hàng may mặc từ xơ sợi tự nhiên hơn là làm từ sợi tổng hợp và sẵn sàng trả thêm tiền để có được hàng hóa với chất lượng tốt hơn.

Giá cả sản phẩm cũng đóng vai trò ngày càng quan trọng khi ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của 77% người tiêu dùng Mỹ.

Bên cạnh các sản phẩm thời trang cao cấp, hiện nay, người tiêu dùng Mỹ quay lại sử dụng mặt hàng bình dân. Trong 305 triệu dân Mỹ, có đến 65% sử dụng các sản phẩm bình dân. Xu hướng kinh doanh nhỏ hơn sẽ đi vào vùng sâu, xa thay cho các chuỗi cửa hàng lớn tại Mỹ. Đó là cơ hội thuận lợi cho hàng Dệt May mở rộng thị phần xuất khẩu vào Mỹ trong thời gian tới.

Ngoài ra, một xu hướng ngày càng nổi lên trong việc mua sắm hàng may mặc của tại thị trường Mỹ, đó là việc mua sắm hàng may mặc qua Internet. Ngày nay, có đến gần 1/3 người tiêu dùng Mỹ bắt đầu có thói quen thường xuyên mua hàng may mặc qua Internet, nhiều hơn hẳn so với Nhật Bản, Anh, Trung Quốc… Xu hướng mua sắm này có ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược tiếp cận và xâm nhập thị trường qua các kênh phân phối của các quốc gia xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường này.

Bảng 2.3. Tỷ lệ người tiêu dùng sử dụng Internet để mua sắm quần áo

Nước

2001

2003

2006

Mỹ

31,07

34,1

34,1

Nhật Bản

9,0

8,6

30,6

Anh

3,7

12,7

23,0

Trung Quốc

-

15,9

22,8

Đức

7,4

7,6

NR*

Cô lôm bia

3,0

4,1

4,6

Thái Lan

-

-

3,6

Italia

1,7

3,2

3,3

Braxin

7,4

3,2

3,2

Ấn Độ

1,4

2,0

2,4

Đơn vị: %


(Nguồn: Global Lifestyle Monitor. *NR = not reported)

Dựa trên xu hướng tiêu dùng của người Mỹ đối với hàng Dệt May, các doanh nghiệp Dệt May xuất khẩu của Việt Nam cần có chiến lược phân phối sản phẩm cụ thể và thích hợp để chinh phục thị trường tiềm năng này trong thời gian tới.

2.1.3. Môi trường pháp lý

2.1.3.1. Hệ thống hài hòa thuế quan (HTS)

Hệ thống thuế quan của Mỹ là Biểu Thuế quan hài hoà của Hợp chúng quốc Hoa kỳ (Harmonized Tariff Schedule - HTS) được chính thức thông qua ngày 01/01/198913. Hệ thống này được xây dựng dựa trên Hệ thống Mô tả hàng hoá và Mã số Hài hoà của Hội đồng Hợp tác Hải quan, một tổ chức liên chính phủ có trụ sở tại Brúc-xen.

Hầu hết các loại thuế quan của Mỹ đánh theo tỷ lệ trên giá trị là mức thuế được xác định bằng một tỷ lệ phần trăm trên giá trị hàng nhập khẩu. Mức thuế suất của Mỹ biến động từ dưới 1% đến gần 40%, đối với hàng Dệt May nhập khẩu thường phải chịu thuế cao hơn. Một số hàng nhập khẩu, thường là nông sản và các loại hàng chế biến khác, là đối tượng chịu "thuế theo số lượng", một loại thuế ấn định đối với một số lượng nhất định. Một số sản phẩm phải chịu thuế gộp, loại kết hợp thuế theo tỷ lệ trên giá trị và thuế theo số lượng.

2.1.3.2. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)

Hàng hoá của các nước thuộc diện đối xử tối huệ quốc sẽ chịu các mức thuế như nhau khi vào Mỹ. Khi Mỹ giảm, loại bỏ, hoặc thay đổi một loại thuế quan, thì sự thay đổi đó được áp dụng bình đẳng với tất cả các quốc gia được hưởng MFN. Hàng nhập khẩu từ các nước không có MFN sẽ phải chịu mức thuế cao hơn rất nhiều.


13 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (1997), Khái quát về Luật Thương mại Mỹ, Tạp chí điện tử, http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_ej0697.html [truy cập ngày 02/04/2010]

Khi gia nhập Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) trong năm thành lập 1948, Mỹ đã đồng ý dành MFN cho tất cả các nước khác đã ký hiệp định. Các nước muốn được hưởng MFN phải đáp ứng hai yêu cầu cơ bản: i) Tuân thủ các điều khoản Jackson-Vanik của Luật Thương mại năm 1974, trong đó yêu cầu tổng thống phải xác nhận là quốc gia đó không từ chối hoặc ngăn cản quyền hoặc cơ hội của công dân của nước đó được di cư; ii) Ðã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ. Hiện nay, Mỹ dành chế độ MFN cho tất cả các thành viên của WTO và hầu hết các quốc gia khác.

2.1.3.3. Luật bồi thường thương mại

Luật thương mại Mỹ bao gồm một số đạo luật quy định về những trường hợp bồi thường cụ thể khi hàng hoá nước ngoài được hưởng lợi thế không công bằng trên thị trường Mỹ hoặc hàng xuất khẩu của Mỹ bị phân biệt đối xử trên thị trường nước ngoài.

Hai đạo luật phổ biến nhất bảo hộ các ngành công nghiệp Mỹ chống lại hàng nhập khẩu không công bằng là Luật thuế bù giá (CVD) và Luật Chống phá giá. 14

Luật thuế bù giá (CVD): quy định một khoản bồi thường dưới dạng thuế nhập khẩu phụ thu để bù vào phần trợ giá của sản phẩm nước ngoài, mà việc bán sản phẩm đó ở Mỹ gây thiệt hại các nhà sản xuất những hàng hoá giống hoặc tương tự của Mỹ. Trong hầu hết các trường hợp, phần trợ giá phải bù lại có thể do chính phủ nước ngoài trực tiếp trả, nhưng luật này cũng áp dụng đối với loại trợ giá gián tiếp bị phát hiện sau khi điều tra theo luật thuế bù giá.

Luật chống phá giá: qui định thuế chống phá giá được ấn định vào hàng nhập khẩu khi người ta xác định được là hàng nước ngoài được bán "phá giá", hoặc sẽ bán phá giá ở Mỹ với giá "thấp hơn giá trị thông thường". Thấp


14 Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (1997), Khái quát về Luật Thương mại Mỹ, Tạp chí điện tử, http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov/doc_ej0697.html [truy cập ngày 01/04/2010]

hơn giá trị thông thường có nghĩa là giá của hàng nhập khẩu vào Mỹ - tức là giá mua hoặc giá bán của nhà xuất khẩu - thấp hơn mức giá của hàng hoá đó ở nước xuất xứ. Bộ Thương mại sẽ xác định giá trị bình thường của hàng nhập khẩu bằng một trong ba cách: giá bán tại nước xuất xứ, giá bán của hàng hoá tại thị trường thứ ba; và "giá trị tính toán" bằng tổng chi phí sản xuất cộng với các khoản bổ sung cho lợi nhuận, tiền hoa hồng bán hàng và các chi phí hành chính khác như đóng gói. Nếu số liệu thực tế không có thì một "vật thay thế" cho lợi nhuận và các chi phí khác sẽ được sử dụng để xác định giá trị tính toán. Luật chống phá giá còn cho phép các ngành của Mỹ được đệ trình khiếu nại về hoạt động bán phá giá ở nước thứ ba.

2.1.4. Hệ thống phân phối

Trên thị trường Mỹ, các công ty lớn, vừa và nhỏ có các kênh thị trường khác nhau. Các công ty lớn tự làm lấy tất cả các khâu từ nghiên cứu, sản xuất, tiếp thị, phân phối và tự nhập khẩu và có hệ thống phân phối riêng. Các công ty vừa và nhỏ thường nhập khẩu hàng hoá về để bán tại Mỹ theo các cách phổ biến sau đây:

Bán cho các cửa hàng bán lẻ: Các mặt hàng thường được phân phối theo hình thức này bao gồm trang sức, quần áo, đồ chơi, mỹ nghệ, tạp hoá. Hàng hóa bán trực tiếp cho các nhà bán lẻ thông qua các nhà nhập khẩu, các người bán hàng có tính chất cá nhân, các công ty nhập khẩu hay các tổ chức buôn bán hàng hoá chuyên nghiệp.

Bán cho nhà phân phối: Hàng hóa được bán cho các nhà phân phối vì họ có hệ thống phân phối rộng khắp khu vực cụ thể nào và có khả năng bán hàng nhanh chóng.

Bán trực tiếp cho các nhà công nghiệp: Các nhà máy công xưởng trực tiếp mua hàng của một số thương nhân nhỏ ở nước sở tại khi họ không có điều kiện để mua trực tiếp của các nhà xuất khẩu nước ngoài hoặc mua qua các nhà nhập khẩu trong nước.

Bán hàng qua hội chợ triển lãm, chợ ngoài trời, buổi giới thiệu bán hàng: Đây là những kênh phân phối hàng hóa phổ biến và hiệu quả ở Mỹ. Đặc biệt, các hội chợ triển lãm chuyên ngành thường xuyên được tổ chức ở Mỹ đã tạo điều kiện cho các nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu gặp gỡ, tiếp xúc và đặt đơn hàng.‌

Ngoài ra, người tiêu dùng ở Mỹ còn có thể mua hàng hóa qua đường bưu điện, catalogue hay Internet.

2.2. Thực trạng Dệt may xuất khẩu Việt Nam vào thị trường Mỹ hậu WTO

2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu

Biểu đồ 2.2. Kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May Việt Nam sang Mỹ

Đơn vị: Triệu USD


Nguồn Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam Theo số liệu của 1

(Nguồn: Số liệu thống kê – Hiệp hội Dệt May Việt Nam)

Theo số liệu của Hải quan Mỹ, năm 1993 Việt Nam chưa hề xuất khẩu sang Mỹ bất kỳ một sản phẩm nào và cũng chỉ nhập khẩu từ Mỹ khoảng 7 triệu USD. Sau khi Tổng thống Bill Clinton quyết định chấm dứt cấm vận

buôn bán với Việt Nam ngày 03/02/1994, hàng hóa của Việt Nam bắt đầu tiếp cận thị trường Mỹ.

Trong giai đoạn năm 1997 – 1999, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May của nước ta sang thị trường Mỹ còn rất hạn chế. Năm 1997, tốc độ tăng trưởng của ngành là 9,86% với kim ngạch xuất khẩu là 25,928 triệu USD. Năm 1998, kim ngạch xuất khẩu hàng Dệt May là 26 triệu USD. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng đạt 13,65% với kim ngạch xuất khẩu đạt 34 triệu USD.

Sau khi Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA) được ký kết và có hiệu lực vào năm 2000, tình hình xuất khẩu mặt hàng may mặc sang thị trường Mỹ có dấu hiệu lạc quan với kim ngạch xuất khẩu tăng cao hơn so với năm trước, đạt 50 triệu USD, đạt tốc độ tăng trưởng là 65,23%. Ngay từ thời gian này, Dệt May đã trở thành một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Mỹ cùng với một số mặt hàng khác như thủy hải sản, dầu khí, giày dép và đồ gỗ gia dụng.

Những năm tiếp theo chứng kiến sự nhảy vọt của ngành công nghiệp Dệt May Việt Nam xét trên tốc độ tăng trưởng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Năm 2002, Mỹ trở thành thị trường nhập khẩu mặt hàng may mặc lớn nhất của nước ta với kim ngạch xuất khẩu đạt 951triệu USD. Năm 2005, kim ngạch đã tăng lên đến 2,603 tỷ USD.

Việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO không chỉ đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nền kinh tế nước nhà mà đồng thời còn mở ra thời kỳ mới trong quan hệ về Dệt May xuất khẩu của nước ta sang Mỹ, một trong ba thị trường nhập khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới. Khi đó, Mỹ áp dụng mức thuế nhập khẩu cho hàng Dệt May xuất khẩu của ta bình đẳng như các quốc gia thành viên khác khi Việt Nam được trao Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR), tức là Qui chế Tối huệ quốc (MFN) năm 2006 nên nên cánh cửa vào Mỹ đã mở rộng dễ dàng hơn trước.

Trong bối cảnh suy giảm kinh tế hiện nay, mặc dù tổng kim ngạch nhập khẩu của Mỹ trong năm 2008 và đầu năm 2009 giảm đi, nhưng xuất khẩu hàng Việt Nam vào Mỹ, cụ thể là hàng Dệt May vẫn tăng trưởng 16 - 17%. Tại thị trường Mỹ, nơi chiếm khoảng 55% thị phần xuất Dệt May của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu trong năm 2009 chỉ đạt gần 5 tỷ USD, giảm 5% so với 5,4 tỷ USD của năm 2008. Với mức giảm này, Dệt May Việt Nam vẫn có lợi thế hơn so với các nước xuất khẩu khác như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan có mức giảm từ 10% - 25%.

2.2.2. Hình thức xuất khẩu

Mặc dù tốc độ tăng trưởng phát triển ngành Dệt May xuất khẩu nước ta vào Mỹ ngày càng lớn, kim ngạch xuất khẩu cao nhưng hiệu quả xuất khẩu còn chưa cao. Đó là vì chúng ta chủ yếu xuất khẩu theo hình thức gia công, thậm chí một số doanh nghiệp nhận làm hàng gia công thuần túy, còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên liệu nhập, chỉ ăn đơn giá gia công nên giá trị tăng thêm thu về thấp. Nhìn chung, hầu hết các doanh nghiệp chưa có đối tác phân phối trực tiếp nên chưa thực sự thâm nhập trực tiếp vào hệ thống phân phối của thị trường có sức tiêu dùng lớn này. Thông thường, hàng dệt may xuất khẩu vào Mỹ, bao gồm cả sản phẩm của Việt Nam chủ yếu qua kênh thứ 3, nước thứ 3 là dài Loan, Hàn Quốc và Singapore. Cũng vì việc xuất khẩu chủ yếu qua trung gian nên các doanh nghiệp của ta càng ít có cơ hội tiếp cận trực tiếp vào thị trường Mỹ, thụ động trong việc tìm hiểu thông tin về thị trường này làm cho hiệu quả xuất khẩu không đạt mức cao nhất.

2.2.3. Phương thức xuất khẩu

Hiện nay, trong lĩnh vực Dệt May xuất khẩu, cụ thể là xuất khẩu sang thị trường Mỹ, chúng ta chủ yếu vẫn theo phương thức gia công xuất khẩu.

15Đa phần được làm theo hợp đồng thầu phụ cho các hãng nước ngoài,

trong đó các hãng này thường cung cấp nguyên phụ liệu và mẫu mã, trong khi


15 Nguyễn Hữu Khải, Đào Ngọc Tiến và Vũ Thị Hiền (2007), Chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam, Nhà xuất bản Thống kê, tr.159.

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 07/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí