93
thường xuyên cập nhật, tự học tập nâng cao kiến thức, kỹ năng quản lý, lãnh đạo và khoa học công nghệ mới. Tỷ lệ nhân lực ngành Giao thông vận tải đường sắt được đào tạo về chuyên môn, có điều kiện được tiếp cận với trình độ quản lý, trình độ chuyên môn tiên tiến trên thế giới còn thấp.
Việc xây dựng tiêu chuẩn chức danh đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý còn chung chung, chưa đầy đủ, nặng về định tính, nên đánh giá chất lượng đặc biệt là chất lượng lãnh đạo còn thiếu chính xác. Việc xây dựng chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa sát với yêu cầu, nhiệm vụ và tính đặc thù của ngành đường sắt.
Ngoài ban lãnh đạo cấp cao, nhân sự lãnh đạo của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, phân bổ tại các phòng ban, có thể chia làm hai khối chính là khối chuyên môn nghiệp vụ và khối sản xuất, trong đó, khối lãnh đạo tham gia chỉ đạo lao động, tham gia sản xuất chiếm chỉ chiếm 40,4%. Thực tế đó cho thấy, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý tại Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam vẫn còn mất cân đối về cơ cấu giữa khối nghiệp vụ và khối sản xuất, do vậy, thiếu một lực lượng lãnh đạo đáp ứng nhu cầu để Tổng Công ty có thể hoạt động có hiệu quả hơn.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý thuộc Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam, về cơ bản, đáp ứng về số lượng, nhưng để đáp ứng yêu cầu quản lý, đầu tư phát triển cao và tăng thêm sức cạnh tranh của ngành, của Tổng Công ty, trong điều kiện mới, thì đội ngũ này cần tiếp tục nâng cao hơn nữa về chất lượng. Hoạt động của các chủ thể chưa thật đa dạng hóa, các biện pháp quy hoạch, kế hoạch đào tạo - bồi dưỡng nhằm nâng cao nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tình hình mới. Chất lượng lao động trình độ cao của một số cán bộ chủ chốt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, vẫn chưa đảm đương được sứ mệnh chiến lược lâu dài của ngành, chưa xứng đáng là "đầu kéo của quá trình phát triển". Thực tế cho thấy, với vai trò là lực nòng cốt của ngành, vẫn để tình hình mất an toàn giao thông vận tải, cụ thể là năm 2017 có 344 vụ mất an toàn; năm 2018
94
đã xảy ra 260 vụ tai nạn, tuy số vụ có giảm nhưng vẫn còn ở mức cao [Phụ lục 4]. Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam còn thiếu các nhà lãnh đạo có năng lực quản lý giỏi toàn diện, cả về vĩ mô và vi mô; hiệu quả lao động chưa cao, tính bình quân thu nhập của người lao động trong ngành còn thấp chỉ đạt trung bình từ 8 triệu đến 8,4 triệu đồng một tháng [Phụ lục 6 và 7]. Thêm vào đó, kinh nghiệm làm việc cũng như khả năng thích nghi với môi trường làm việc và tác phong công nghiệp còn thấp.
Nguyên nhân khách quan của những hạn chế trong hoạt động phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay, trước hết là ở đó công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ trì đầu ngành chưa được đổi mới. Nguyên tắc, cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ có thời điểm chưa thật chặt chẽ và thống nhất, nên để tình trạng cá nhân được giao cho quá nhiều quyền lực. Chính sách xã hội và chính sách đãi ngộ cán bộ chưa đổi mới thường xuyên cho phù hợp với thực tiễn hoạt động của Ngành.
Có thể bạn quan tâm!
- Thành Tựu Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ngành Đường Sắt Việt Nam Hiện Nay Và Nguyên Nhân
- Thành Tựu Phát Triển Đội Ngũ Cán Bộ Khoa Học, Công Nghệ Ngành Đường Sắt Việt Nam Hiện Nay
- Thành Tựu Phát Triển Đội Ngũ Công Nhân Lành Nghề Ngành Đường Sắt Việt Nam Hiện Nay
- Những Vấn Đề Đặt Ra Trong Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ngành Đường Sắt Việt Nam Hiện Nay
- Quan Điểm Cơ Bản Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ngành Đường Sắt Việt Nam Hiện Nay
- Phát Triển Nguồn Nhân Lực Chất Lượng Cao Ngành Đường Sắt Phải Đồng Thời Và Kết Hợp Với Phát Triển Nguồn Nhân Lực Phổ Thông Của Ngành
Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.
Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế trong hoạt động phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý của ngành. Cấp ủy ở các cơ quan chưa thực hiện tốt công tác kiểm tra, đánh giá cán bộ. Cán bộ phụ trách nhân lực chưa thực sự chuyên nghiệp. Từ đó, tất yếu dẫn đến việc quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được quan tâm đúng mức. Thiếu cán bộ quản lý giỏi, có tâm huyết với nghề, thiếu chuyên gia đầu ngành. Ngành chưa quan tâm thích đáng về các chính sách đặc thù, về trả lương, trả thưởng phù hợp thu hút được những chức danh quan trọng, cạnh tranh được với các tổng công ty trong nước và tiến tới cạnh tranh trong khu vực, với thế giới.
3.2.2. Hạn chế về phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay
Những năm gần đây, mặc dù đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ tuy đã có bước phát triển so với những năm trước, nhưng vẫn còn có những bất cập. Về chất lượng, trong đội ngũ vẫn thiếu những chuyên gia giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ. Cơ cấu đội ngũ cán bộ, nhân viên chưa phù hợp, chưa đồng
95
đều. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học có khả năng sáng tạo, phát triển khoa học công nghệ mới cho ngành còn chưa nhiều; khả năng làm việc theo nhóm chưa cao. Đội ngũ giảng viên thiếu kỹ năng, phương pháp giảng dạy tiên tiến, yếu về kỹ năng thực hành. Chất lượng giảng viên tham gia bồi dưỡng hàng năm chưa cao, do kinh phí hạn chế.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ làm công tác đào tạo còn thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Hệ thống đào tạo trong Tổng Công ty chưa thực sự hiện đại, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả công tác đào tạo và phát triển nhân lực. Chưa có mạng lưới chuyên gia trong toàn ngành và chuyên gia người Việt phục vụ công tác đào tạo. Tổng Công ty cần có một đội ngũ chuyên gia trong công tác lập ra kế hoạch và chiến lược phát triển Tổng Công ty hàng quý, hàng năm, để từ đó đánh giá kịp thời thực trạng phát triển và đề ra các giải pháp hợp lý cho sự phát triển bền vững của Tổng Công ty. Từ đó, tiết kiệm một khoản chi phí không nhỏ cho việc thuê chuyên gia nước ngoài trong việc lập ra chiến lược phát triển của Tổng Công ty.
Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam đang còn thiếu đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ cả về số lượng và năng lực để đáp ứng yêu cầu công việc ngày càng cao. Nhân lực khoa học, công nghệ thiếu và yếu là vấn đề nổi cộm hiện nay. Hiện nay, ngành đường sắt đang thực hiện nhiều dự án nên đang cần rất nhiều cán bộ khoa học, công nghệ, các kỹ sư trình độ cao. Trong khi đó, các kỹ sư, cử nhân mới ra trường hầu hết đều thiếu kỹ năng giao tiếp và ngoại ngữ - một yêu cầu cần thiết để làm việc cho tổng công ty với các chuyên gia nước ngoài.
Trong giai đoạn từ 2010 đến nay, trình độ của lực lượng lao động ở Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam không ngừng tăng lên từ đó gia tăng nguồn nhân lực chất lượng cao. Cụ thể là số lượng tiến sỹ và thạc sỹ tăng lên. Có thể nói, nhân lực tại Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam tại thời điểm hiện tại hầu hết đều đã qua đào tạo. Khi Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam hoạt động với công suất lớn hơn và mở rộng quy mô trong tương lai thì con số này là chưa đủ. Bên cạnh đó, thì số cán bộ khoa học công nghệ có trình độ sau đại
96
học còn hạn chế, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình phát triển chuyên gia đầu ngành ở Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay.
Nguyên nhân khách quan của những hạn chế trong hoạt động phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ của ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay là đầu tư vốn của nhà nước cho ngành so với yêu cầu đổi mới công nghệ của ngành, để hiện đại hóa và phát triển tương xứng với đòi hỏi thực tế của nhu cầu xã hội còn hạn chế. Địa hình, thời tiết của nước ta rất khắc nghiệt và cơ hội tìm kiếm việc làm của cán bộ khoa học, công nghệ có trình độ cao lớn. Trang thiết bị, nội dung, chương trình, thời gian đào tạo một số nghề chưa hợp lý; giáo trình đào tạo chưa phong phú, chưa theo kịp sự phát triển khoa học, công nghệ.
Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế trong hoạt động của các chủ thể tham gia phát triển đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ của ngành là còn chưa thật đồng đều và thống nhất. Công tác tuyển dụng, chưa có chính sách ưu tiên hợp lý đối với cán bộ khoa học, công nghệ. Có một bộ phận nhân lực vào làm việc tại tổng công ty, đa số là công nhân kỹ thuật, chính điều này đã ảnh hưởng đến sự cống hiến lâu dài trong công tác. Sự nỗ lực, khắc phục khó khăn, tâm huyết với nghề của một số cán bộ chưa cao và chưa thật gắn bó với ngành, còn có biểu hiện thực dụng trong so sánh môi trường, điều kiện làm việc và thu nhập của cá nhân.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ chưa trở thành hạt nhân trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt. Đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học, tuy tăng về số lượng song chưa tạo ra sự phát triển đột phá về chất lượng. Tỷ lệ giảng viên có trình độ sau đại học chưa cao, chất lượng chưa đồng đều, chưa có nhiều giảng viên trở thành những chuyên gia đầu ngành. Tỷ lệ cán bộ, giảng viên qua thực tiễn công tác giảm sút nhanh. Do nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan, nên vẫn còn một tỷ lệ giảng viên chưa đạt chuẩn, một bộ phận bị tác động bởi cơ chế thị trường nên chất lượng đạt thấp. Hơn nữa, chế độ, chính sách có nội dung chưa phù hợp với lao động ngành đường sắt, vì vậy chưa thu hút được những người giỏi vào
97
các trường đào tạo, bồi dưỡng ngành đường sắt. Thực tế này cho thấy, nếu như chính đội ngũ cán bộ, giảng viên, cán bộ khoa học công nghệ, chuyên gia đầu ngành còn bộc lộ những hạn chế nhất định, thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt. Đội ngũ cán bộ khoa học ngành đường sắt cũng đang trong tình trạng vừa thiếu, vừa yếu, vừa chưa có điều kiện tốt nhất để phát triển. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính tác động mạnh đến sự phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa của ngành.
3.2.3. Hạn chế về phát triển đội ngũ doanh nhân ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay
Thực tế cho thấy, đa số doanh nhân ngành Đường sắt Việt Nam xuất phát và trưởng thành từ yêu cầu thực tế trong hoạt động của ngành. Họ vừa làm, vừa học và trưởng thành từ hoạt động sản xuất, kinh doanh nên có nhiều thuận lợi, nhưng hiện tại chất lượng của đội ngũ vẫn còn có những bất cập. Trước hết, là về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của doanh nhân ngành đường sắt nhìn chung còn thấp. Những năm gần đây, số lượng doanh nhân có trình độ đại học, sau đại học và được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ đang có xu hướng tăng lên, nhưng số lượng chưa nhiều. Cơ cấu độ tuổi trung bình của doanh nhân từ 40 - 50 tuổi, số doanh nhân trẻ tuổi (dưới 30 tuổi) được bồi dưỡng và phát triển chưa nhiều và còn thiếu tác phong kinh doanh chuyên nghiệp, thiếu kinh nghiệm thương trường quốc tế và sự liên kết chặt chẽ.
Số lượng doanh nhân có chứng chỉ, bằng cấp về lý luận chính trị, về kiến thức quốc phòng, thì chưa nhiều. Đội ngũ doanh nhân ngành đường sắt, tham gia liên doanh giao thương với nước ngoài còn hạn chế, đặc biệt là về am hiểu luật pháp quốc tế, ngoại ngữ, tin học…
Về cơ cấu của đội ngũ doanh nhân ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay, còn có sự mất cân đối về độ tuổi và giới tính là chủ yếu nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và khả năng đáp ứng nhu
98
cầu công việc tại Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam. Một bộ phận ít doanh nhân tham gia sản xuất, kinh doanh chưa tuân thủ nghiêm luật pháp, những quy định và còn có cạnh tranh không lành mạnh như chốn thuế, nhập hàng lậu…
Nguyên nhân khách quan của những hạn chế nêu trên, trước hết là do nước ta mới tham gia hội nhập quốc tế và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang trong giai đoạn hoàn thiện. Hệ thống pháp luật, cơ chế bảo đảm cho vận hành nền sản xuất hàng hóa, cạnh tranh trong kinh doanh và sự bảo vệ của các cơ quan có thẩm quyền chưa thật đồng bộ. Công tác xây dựng, sửa đổi và tiến hành thực hiện Luật Lao động chưa tạo ra sự thống nhất cao, nhiều nội dung phải vận dụng nên có tác động lớn đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt, nhất là đối với việc thu hút, sử dụng những tài năng.
Nguyên nhân chủ quan của những hạn chế về phát triển đội ngũ doanh nhân ngành đường sắt những năm qua là có thời điểm tuyển dụng đội ngũ cán bộ làm công tác kinh doanh có hiện tượng tiêu cực. Cơ chế quản lý của ngành đối với mọi hoạt động của đội ngũ doanh nhân, của các cơ quan chức năng của Nhà nước có thời điểm chưa thật chặt chẽ. Tổng Công ty đường sắt chưa có một kế hoạch hợp lý, rõ ràng và minh bạch về việc tuyển dụng nhân lực trong hiện tại và thời gian tới, để phục vụ cho dự án mở rộng tổng công ty khai thác kinh doanh vận tải, sản xuất. Bản thân một số doanh nhân đề quá cao lợi ích cá nhân, thiếu tinh thần yêu nước, tự lực, tự cường, chưa có trách nhiệm cao với ngành đường sắt, với cộng đồng, xã hội.
Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam chậm triển khai xây dựng chiến lược tổng thể về nguồn nhân lực ngành đường sắt, trong đó có nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt. Thời gian qua, tuy đã có những chủ trương, nghị quyết rất quan trọng về giáo dục và đào tạo, chủ trương xây dựng Học viện Đường sắt, dự án xây dựng Trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ Đường sắt Việt Nam…song, chậm triển khai chiến lược tổng thể để phát triển nguồn nhân lực ngành đường sắt đáp ứng yêu cầu phát
99
triển đất nước trong giai đoạn mới. Đây là trách nhiệm của ngành đường sắt nói chung, song chủ yếu là trách nhiệm của người đứng đầu và các cơ quan chức năng. Sự phát triển nguồn nhân lực ngành đường sắt chưa thực sự tạo ra được sự liên thông, liên kết chặt chẽ với phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Vì vậy, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp và chưa dự báo chính xác về nhu cầu, yêu cầu về số lượng, chất lượng và cơ cấu của từng loại nhân lực đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, tái cơ cấu và cơ cấu lại ngành đường sắt. Việc xây dựng những tiêu chí chung và tiêu chí cụ thể của từng loại nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt còn chung chung, chưa phù hợp với thực tiễn, với nhiệm vụ phát triển kinh tế, mở rộng kinh doanh của các công ty trong toàn ngành.
Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam chưa xác định một số nội dung, chỉ tiêu liên quan đến phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ngành Đường sắt Việt Nam. Công tác tổ chức, triển khai còn bộc lộ những hạn chế, bất cập. Chủ trương nâng cao trình độ đội ngũ trong một thời gian ngắn là chưa thật sự phù hợp với thực tiễn, thể hiện sự chủ quan, nóng vội. Sự tham mưu, đề xuất nhằm điều chỉnh cho phù hợp của các cơ quan chức năng chưa kịp thời, còn biểu hiện lúng túng. Vì vậy, sau nhiều năm triển khai vẫn không đạt yêu cầu đề ra, có thời điểm triển khai theo phong trào, chưa quan tâm đúng mức đến chất lượng. Công tác quy hoạch, đổi mới, sắp xếp hệ thống các trường đại học, cao đẳng trong ngành giao thông vận tải chưa được quán triệt sâu sắc dẫn đến hiệu quả thực hiện còn hạn chế. Vì vậy, đến nay quy mô, chất lượng đào tạo của các trường đại học, trường cao đẳng đường sắt, một mặt chưa tạo ra lực hút hấp dẫn những học sinh, sinh viên giỏi; mặt khác, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao ngành đường sắt.
3.2.4. Hạn chế về phát triển đội ngũ công nhân lành nghề ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay
Thực tế những năm gần đây cho thấy, đội ngũ công nhân lành nghề của ngành Đường sắt Việt Nam đã có sự phát triển khá tốt, tuy nhiên để đáp ứng
100
yêu cầu ngày càng cao của ngành trong điều kiện mới thì vẫn đang đặt ra những hạn chế, bất cập về cơ cấu, chất lượng ở đội ngũ này.
Về đào tạo đội ngũ công nhân lành nghề, chưa có trung tâm thực hành trong lĩnh vực kỹ thuật đường sắt để người lao động được đào tạo một cách bài bản trước khi vào làm việc tại các đơn vị thuộc Tổng Công ty. Sự thích ứng với các sản phẩm khoa học, công nghệ mới và thao thác kỹ năng nghề nghiệp để có năng suất cao thì chưa đồng đều giữa công nhân các chuyên ngành, giữa các đơn vị. Trình độ ngoại ngữ, tin học và kỹ năng giao tiếp của một bộ phận chưa thật tốt và đồng đều. Kỷ luật lao động, trách nhiệm trong công việc của một bộ phận chưa thật cao. Cơ cấu lứa tuổi của đội ngũ công nhân lành nghề thường có tuổi bình quân cao, không có công nhân nhiều đời. Một bộ phận hiểu biết về chính trị, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ngành đường sắt chưa thật sâu sắc.
Thực tế hiện nay, trong ngành đường sắt, lực lượng lao động trẻ luôn luôn được bổ sung hàng năm, tuổi nghề thấp nên thiếu kinh nghiệm trong công việc, do đó chưa chủ động giải quyết những sự cố bất ngờ xảy ra trong quá trình vận hành Tổng Công ty. Trong đội ngũ công nhân lành nghề ngành đường sắt là nguồn nhân lực có đầy đủ trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có sức khỏe tốt còn thiếu, mà thường là phải có thời gian để trải nghiệm, có độ nhạy bén trong công việc, khả năng thích ứng với công việc. Chính vì thế, mà một nguồn nhân lực chất lượng cao không thể là nguồn nhân lực quá già hay quá non trẻ. Bên cạnh tuổi tác, thì giới tính của lực lượng lao động cũng ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay. Thực tế cho thấy, để phục vụ tốt nhiệm vụ, đạt hiệu quả cao và đáp ứng với yêu cầu mới của Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam thì cần phải có sự cân đối trong giới tính của nhân lực. Lực lượng lao động ở ngành Đường sắt Việt Nam hiện nay, có 80,7% lực lượng lao động là nam; 19,3% là nữ, đây là một sự mất cân đối lớn về giới tính tại Tổng Công ty.