Về Phía Các Tổ Chức Phát Hành, Nhà Đầu Tư


loại chứng khoán có mức độ rủi ro khác nhau và với thời hạn nắm giữ khác nhau. Đồng thời, Bộ Tài chính cũng cần qui định cụ thể về chế độ hạch toán đối với các khoản đầu tư ngắn hạn và dài hạn của CTCK, không nên để các CTCK tùy tiện hạch toán khoản đầu tư này như hiện nay. Có qui định như vậy mới có cơ sở để các CTCK tính và trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán theo đúng mức độ rủi ro.

Cần có các chế tài đủ mạnh để xử lý các vụ vi phạm qui định về hoạtđộng trên thị trường chứng khoán.Khi thị trường phát triển thì đối tượng vi phạm và những vụ vi phạm pháp luật cũng ngày càng đa dạng và tinh vi hơn. Do đó, để hạn chế các vụ vi phạm pháp luật thì đòi hỏi phải có các hình thức xử phạt thật nghiêm khắc đủ để các đối tượng khác không dám vi phạm các qui định của pháp luật. Luật chứng khoán cũng đã đề cập tới xử lý hành vi vi phạm qui định về hoạt động kinh doanh chứng khoán và chứng chỉ hành nghề chứng khoán tại điều 126. Tuy nhiên lại chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Và trên thực tế một số CTCK vi phạm nhưng biện pháp xử lý ở đây chủ yếu là nhắc nhở. Điều này chưa đủ sức răn đe các CTCK không tái phạm. Vì vậy, cần phải có các chế tài xử phạt các CTCK mạnh hơn nữa khi vi phạm qui tắc đạo đức nghề nghiệp, hay vi phạm các qui định chung của pháp luật khi thực hiện các nghiệp vụ làm ảnh hưởng tới lợi ích của nhà đầu tư.

Cần có biện pháp xử lý nghiêm khắc các doanh nghiệp không chấp hànhtheo đúng chế độ báo cáo kế toán tài chính chuẩn quốc gia. Bộ tài chính đã ban hành chế độ báo cáo kế toán tài chính chuẩn quốc gia, tuy nhiên vẫn còn có những doanh nghiệp không chấp hành hạch toán theo hệ thống kế toán chuẩn mực, đặc biệt là các doanh nghiệp chưa niêm yết. Điều này tạo ra sự không thống nhất số liệu trong các báo cáo tài chính, gây khó khăn cho các đối tượng có nhu cầu tìm hiểu, phân tích tình hình doanh nghiệp. Việc đưa ra


các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với những doanh nghiệp không chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo tài chính sẽ buộc các chủ doanh nghiệp có được ý thức rõ ràng và đầy đủ hơn về nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện hạch toán kế toán.

Xây dựng mô hình hoạt động cho các công ty chứng khoán

Hiện nay các CTCK ở Việt nam đều đăng ký thực hiện tất cả các hoạt động nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, thực tế do qui mô vốn thấp và hạn chế về nhân lực nên một số CTCK chỉ tiến hành một hoặc hai hoạt động nghiệp vụ. Vì vậy, trong tương lai cần phân định lại mô hình hoạt động của các CTCK. Trên thế giới, ở một số nước, các CTCK được chia thành hai nhóm: CTCK tổng hợp (thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ) và CTCK chuyên môn hóa sâu chỉ thực hiện một hoặc hai hoạt động nghiệp vụ.

Căn cứ vào tình hình thực tế, xu hướng phát triển của thị trường cũng như của các CTCK ở Việt nam và kinh nghiệm các nước trên thế giới, các CTCK ở Việt nam nên được phân chia thành hai mô hình hoạt động, cụ thể:

+ Mô hình CTCK tổng hợp: là những CTCK thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ mà luật pháp cho phép gồm: hoạt động môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư chứng khoán. Với mô hình này, ủy ban chứng khoán Nhà nước cần bổ sung thêm các điều kiện chặt chẽ hơn để đảm bảo những CTCK đó là những CTCK mạnh thực sự và đủ khả năng để thực hiện tất cả các hoạt động nghiệp vụ. Điều kiện chặt chẽ hơn cần qui định thêm bao gồm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 221 trang tài liệu này.

- Yêu cầu về vốn cao hơn để đảm bảo năng lực tài chính của CTCK khi trở thành CTCK tổng hợp; yêu cầu về số lượng nhân viên đảm nhiệm mỗi vị trí công việc tránh tình trạng quá tải đối với nhân viên hành nghề;


Phát triển hoạt động của công ty chứng khoán ở Việt Nam - 24

- Yêu cầu về trình độ nhân viên phải có bằng cấp chuyên môn, có đủ các chứng chỉ hành nghề cần thiết do Ủy ban chứng khoán Nhà nước cấp;

- Yêu cầu về cơ sở vật chất đảm bảo hỗ trợ cho các hoạt động của công ty được thực hiện một cách thuận tiện nhất;

- Yêu cầu về tổ chức bộ máy công ty để đảm bảo tính khoa học, tính chuyên nghiệp trong hoạt động của CTCK...

+ Mô hình CTCK chuyên sâu: là những CTCK chỉ thực hiện một hoặc hai hoạt động nghiệp vụ, là những công ty không đủ điều kiện để thực hiện đầy đủ các hoạt động nghiệp vụ hoặc là những công ty đã định hướng phát triển mạnh trong một lĩnh vực hẹp của thị trường chứng khoán. Với những CTCK này, các yêu cầu để thành lập đơn giản so với mô hình trên.

Đối với CTCK chuyên môn hóa sâu, để đảm bảo các hoạt động của CTCK chuyên môn hóa sâu không dẫn tới xung đột lợi ích giữa CTCK và khách hàng, Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng cần qui định cụ thể các hoạt động nghiệp vụ đi kèm nhau để các CTCK đăng ký thực hiện. Các hoạt động đi kèm với nhau sẽ chia thành ba mảng hoạt động, đó là (1) CTCK thực hiện hoạt động tự doanh và hoạt động bảo lãnh phát hành; (2) CTCK thực hiện hoạt động môi giới và hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán; và (3) CTCK thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Điều này cũng có nghĩa là nếu các CTCK thực hiện chuyên môn hóa sâu thì không được thực hiện đồng thời hai hoạt động môi giới và tự doanh.

Những CTCK thuộc loại này nguồn lực không bị phân tán, dàn trải cho tất cả các hoạt động mà được tập trung để phát triển một hoặc hai hoạt động.

Căn cứ vào mô hình hoạt động của các CTCK, Chính phủ nên cho phép các ngân hàng thương mại tham gia trực tiếp trên thị trường chứng khoán với hai hoạt động tự doanh và bảo lãnh phát hành, tức là theo mô hình chuyên môn


hóa sâu. Tuy nhiên, giai đoạn đầu, cần khống chế hoạt động tự doanh của các ngân hàng thương mại, chỉ cho phép ngân hàng thương mại tiến hành hoạt động tự doanh đối với những chứng khoán mà ngân hàng tiến hành bảo lãnh theo hình thức cam kết chắc chắn.

Hoàn thiện và triển khai thực hiện các qui tắc trong bộ qui tắc đạo đứcnghề nghiệp ở các công ty chứng khoán

Ủy ban chứng khoán Nhà nước cần sớm thông qua và triển khai thực hiện bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp. Bộ qui tắc đạo đức nghề nghiệp được Hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt nam xây dựng dựa trên bộ nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp của Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán (IOSCO) bao gồm 6 qui tắc:

Qui tắc 1: tuân thủ pháp luật và các qui chế nội bộ Qui tắc 2: Hoạt động chuyên nghiệp

Qui tắc 3: Nghĩa vụ thông tin Qui tắc 4: Tránh xung đột lợi ích Qui tắc 5: Giao dịch thành viên

Qui tắc 6: Qui tắc cụ thể đối với giao dịch OTC


Bộ qui tắc này được xem như là những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, điều chỉnh hành vi của công ty, nhân viên công ty khi thực hiện hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ chứng khoán. Nó đòi hỏi tất cả các nhân viên hành nghề cũng như những người giữ các vị trí chủ chốt trong CTCK phải tuân thủ theo. Qua đó, hoạt động trong các CTCK sẽ mang tính bài bản, chuyên nghiệp, tạo dựng được một thị trường công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.


3.3.2. Về phía các tổ chức phát hành, nhà đầu tư


Tổ chức phát hành cần chấp hành nghiêm túc chế độ công bố thông tinvề thời gian, nội dung cũng như tính chính xác của thông tin công bố. Việc các tổ chức phát hành chấp hành nghiêm chỉnh chế độ công bố thông tin sẽ tạo thuận lợi cho các CTCK triển khai và phát triển hoạt động của mình. Với hoạt động tự doanh, CTCK rất cần các thông tin từ tổ chức phát hành để phân tích và ra quyết định đầu tư, với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán, các CTCK cần có thông tin từ tổ chức phát hành để tiến hành phân tích và tư vấn cho khách hàng. Như vậy, các tổ chức phát hành đã hỗ trợ cho các CTCK phát triển các hoạt động nghiệp vụ.

Tổ chức phát hành cần chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hạch toán kế toánmà Bộ Tài chính đã ban hành. Bộ Tài chính đã ban hành hệ thống kế toán chuẩn cho các doanh nghiệp, tuy nhiên việc thực hiện chế độ hạch toán kế toán chưa được các doanh nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành, đặc biệt các doanh nghiệp chưa niêm yết. Do vậy việc các doanh nghiệp nghiêm chỉnh chấp hành chế độ hạch toán kế toán sẽ tạo thuận lợi cho các CTCK trong việc phân tích phục vụ cho hoạt động bảo lãnh phát hành, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán và tư vấn tài chính.

Tổ chức phát hành và nhà đầu tư cần nhận thức rõ hơn nữa lợi ích từ cácdịch vụ mà CTCK cung cấp.Trên cơ sở đó sẽ yêu cầu các CTCK cung cấp các dịch vụ mới, chất lượng dịch vụ cung cấp tốt hơn. Đó là nhân tố giúp các CTCK ngày càng phát triển các hoạt động của mình để đáp ứng ngày một tốt hơn về chất lượng các dịch vụ.



Trên cơ sở chỉ ra được những nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự hạn chế trong phát triển hoạt động của các CTCK trong thời gian qua ở chương 2, cùng với đề án phát triển thị trường vốn Việt nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020 của Thủ tướng Chính phủ là những điều kiện tiền đề cho việc đề xuất một số giải pháp của luận án.

Với 6 nhóm giải pháp thuộc về các CTCK và 12 điều kiện để thực thi các giải pháp là những giải pháp, điều kiện cơ bản mang tính đồng bộ, chiến lược tác động tới hoạt động của các CTCK. Hoạt động của các CTCK sẽ phát triển nếu như được sự đồng lòng ủng hộ từ phía Chính phủ, các nhà đầu tư, các nhà phát hành và từ chính nỗ lực của bản thân các CTCK. Với các giải pháp đã được đề xuất, các CTCK sẽ ngày càng chứng tỏ được vai trò quan trọng của mình trên thị trường chứng khoán Việt nam trong tương lai.


KẾT LUẬN

Với hơn 6 năm hoạt động, TTCK đã có những bước phát triển mạnh về qui mô hàng hóa, về số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường, về qui mô vốn lẫn về các tổ chức trung gian. Từ chỗ chỉ có 2 CTCK vào ngày đầu thành lập thị trường đến nay đã có 79 CTCK chính thức đi vào hoạt động, từ chỗ các công ty ban đầu chỉ đăng ký thực hiện một hai nghiệp vụ thì đến nay tất cả các CTCK đều đã đăng ký thực hiện tất cả các nghiệp vụ và trên thực tế các nghiệp vụ này đã được triển khai và bước đầu đã đem lại doanh thu cho các CTCK. Thông qua các hoạt động nghiệp vụ của mình các CTCK đã cung cấp các dịch vụ tiện ích cho cả nhà đầu tư lẫn nhà phát hành. Các CTCK không chỉ là tác nhân giúp TTCK Việt nam phát triển mà nó còn góp phần không nhỏ vào việc đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa DNNN, giúp Chính phủ thực hiện chương trình cải tổ DNNN thông qua dịch vụ tư vấn cổ phần hóa, dịch vụ tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp và dịch vụ bán đấu giá cổ phần. Do đó, những đóng góp của các CTCK là không thể phủ nhận

Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các CTCK cũng đã bộc lộ một số những hạn chế mà nguyên nhân của nó xuất phát cả ở tầm vĩ mô tới tầm vi mô. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp khắc phục những hạn chế trên là hết sức cần thiết để giúp các CTCK ngày càng phát triển nhất là trong bối cảnh Việt nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO và lộ trình cam kết cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào lĩnh vực ngân hàng tài chính (trong đó có chứng khoán) đang đến gần.

Những vấn đề cơ bản đã được luận giải trong luận án, cụ thể:


Thứ nhất, hệ thống hóa các vấn đề cơ bản liên quan tới CTCK, trong đó đề cập chi tiết về các hoạt động chính của một CTCK, phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động của CTCK.


Thứ hai, phân tích thực trạng hoạt động của các CTCK ở Việt nam từ khi thành lập thị trường đến hết năm 2007. Trên cơ sở đó đánh giá những thành công và hạn chế trong hoạt động của các CTCK; phân tích các nguyên nhân chủ yếu dẫn tới hoạt động của các CTCK ở Việt nam hiện nay chưa phát triển.

Thứ ba, đề xuất hệ thống giải pháp nhằm phát triển hoạt động của các CTCK ở Việt nam trong thời gian tới.

Xem tất cả 221 trang.

Ngày đăng: 26/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí