doanh nhiệp nhiều hơn. Dự báo lượng khách hàng mua sắm tại các siêu thị, trung tâm thương mại nước ngoài sẽ ngày càng tăng lên.
Mặc dù sức ép cạnh tranh sẽ gia tăng thêm trong thời gian tới nhưng cơ hội của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài dày dạn kinh nghiệm vẫn rất lớn.
3.5. Giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
3.5.1. Giải pháp từ phía nhà nước
3.5.1.1.Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo môi trường thuận lợi để phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại
Hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại Thế giới WTO thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo môi trường kinh doanh thông thoáng và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế trong cũng như ngoài nước, phù hợp với nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT) là yêu cầu cấp thiết hàng đầu.
Trong những năm qua, nhà nước ta đã ban hành nhiều đạo luật, quy chế liên quan đến hoạt động bán lẻ đồng thời cũng thường xuyên tiến hành rà soát, sửa đổi để từng bước hoàn chỉnh các chính sách và cơ chế quản lý. Tuy nhiên, điểm hạn chế là tính ổn định của các đạo luật là rất thấp, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Đó là một quy chế siêu thị và trung tâm thương mại. Tuy nhiên, hiện nay Quy chế siêu thị và trung tâm thương mại đã bộc lộ nhiều điểm bất cập như đã phân tích trong chương 2. Trong thời gian tới nhà nước cần có thêm những văn bản pháp luật quy định chi tiết và có tính ràng buộc pháp lý cao hơn đối với hoạt động kinh doanh bán lẻ hiện đại. Trước hết quy chế cần được hoàn thiện để khắc phục các bất cập về tên gọi, qua đó xác định rõ hơn các loại hình chịu sự điều tiết, quản lý của Quy chế Chính phủ cần hoàn thiện, điều chỉnh tiêu chuẩn phân hạng siêu thị cho phù hợp với thực tế và tạo điều kiện cho công tác quản lý. Đồng thời, quy chế cần được nghiên cứu để nâng cấp thành Dự án Luật kinh doanh bán lẻ tại Việt. Dự án luật này nên được xây dựng càng sớm càng tốt để kịp thời trở thành khung pháp lý điều chỉnh hoạt động bán lẻ sẽ phát triển bùng nổ trong tương lai gần.
Về Luật An toàn vệ sinh thực phẩm và các tiêu chuẩn chất lượng:
Một trong những khuôn khổ pháp lý có ảnh hưởng nhiều nhất tới hoạt động bán lẻ là Luật vệ sinh an toàn thực phẩm. Hiện nay, Việt Nam đã có những quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm theo Pháp lệnh số 12/2003/PL- UBTCQH ngày 26/07/2003 về vệ sinh an toàn thực phẩm, song công tác giám sát và thực hiện luật này tại các siêu thị, cửa hàng trong thời gian qua còn lỏng lẻo dẫn tới hàng loạt siêu thị bán hàng "không sạch" cho nguời tiêu dùng. Chúng ta cần xây dựng một hệ thống quản lý chất lượng hàng hoá trên thị trường với một chuẩn mực thống nhất trong cả nước. Công tác này phải do những cơ quan chuyên trách đảm nhiệm, tránh sự chồng chéo gây khó khăn cho lưu thông. Đồng thời, Nhà nước nên có quy định thống nhất về hệ thống mã
vạch cho sản phẩm...
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển hoạt động bán lẻ hiện đại - triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam - 9
- Triển Vọng Phát Triển Cho Các Doanh Nghiệp Bán Lẻ Nước Ngoài Và Giải Pháp Cho Các Doanh Nghiệp Bán Lẻ Việt Nam
- Những Thay Đổi Trong Thu Nhập Và Chi Tiêu Của Người Tiêu Dùng Việt Nam
- Phát triển hoạt động bán lẻ hiện đại - triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam - 13
- Phát triển hoạt động bán lẻ hiện đại - triển vọng cho các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài và giải pháp cho các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam - 14
Xem toàn bộ 115 trang tài liệu này.
Nhà nước cần xác định hệ thống bán lẻ hiện đại là các đơn vị tiên phong trong việc chấp hành các tiêu chuẩn về vệ sinh thực phẩm. Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, nâng cao ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong lĩnh vực bán lẻ, nhà nước cần quy định rõ ràng các tiêu chuẩn của hàng hóa bày bán trong siêu thị, cửa hàng tiện lợi tiến hành kiểm tra, giám sát thường xuyên với các đơn vị này. Điều này sẽ giúp các cơ quan chức năng từng bước áp dụng các biện pháp quản lý vệ sinh thực phẩm cho các hình thức bản lẻ khác, chấm dứt tình trạng lộn xộn không quản lý được như đối với các chợ, cửa hàng truyền thống.
3.5.1.2.Giải pháp xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại
Chính sách tài chính tín dụng
Khó khăn rất lớn của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay là thiếu vốn. Do đặc thù của kinh doanh bán lẻ theo hướng hiện đại cần vốn đầu tư ban đầu khá lớn nhưng lợi nhuận ban đầu thấp cho nên Nhà nước cần có chính sách ưu đãi tín dụng và những ưu đãi khác đối với các doanh nghiệp. Cho đến nay nước ta chưa có chính sách tài chính tín dụng ưu tiên phát triển
hệ thống bán lẻ hiện đại. Các doanh nghiệp muốn kinh doanh phải tự chuẩn bị về vốn mà không nhận được bất cứ ưu đãi nào. Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ để các doanh nghiệp trong nước tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn; sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển của nhà nước bao gồm vốn ngân sách Trung ương, địa phương, vốn từ các quỹ hỗ trợ phát triển… để ưu đãi tín dụng cho các chủ thể kinh doanh bán lẻ hiện đại.
Để tăng khả năng cạnh tranh của siêu thị đối với những loại hình bán lẻ truyền thống như chợ và các cửa hàng bách hóa thì chính sách thuế cho việc kinh doanh siêu thị cũng cần được điều chỉnh lại cho hợp lý.
Chính sách về đất đai và quy hoạch
Do chưa có quy hoạch thống nhất trên cả nước nên các điểm bán lẻ hiện đại thường được xây dựng tự phát. Thời gian tới chính phủ nên có quy hoạch cụ thể về mạng lưới các siêu thị, trung tâm thương mại. Quy hoạch cần xác định cụ thể nơi nào sẽ ưu tiên cho các doanh nghiệp trong nước, nơi nào kêu gọi đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, khi đấu giá quyền sử dụng đất ở các vị trí thuận lợi cần dựa trên quy hoạch chứ không phải mức giá, dành diện tích thỏa đáng và vị trí phù hợp cho các doanh nghiệp trong nước. Hiện các doanh nghiệp trong nước đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuyết phục các địa phương trong việc cho phép họ triển khai kinh doanh, tiếp cận nguồn lực, đặc biệt là đất đai. Nhiều doanh nghiệp phải mất từ 3-5 năm mới tiếp cận được đất đai, thậm chí muốn có vị trí kinh doanh thì phải tham gia đấu giá với chi phí cực lớn. Trong khi đó các doanh nghiệp nước ngoài được phép thuê đất và họ cũng có đủ tiềm lực để tham gia mua đất.
Nhà nước cũng cần dành một quỹ đất nhất định cho phát triển hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi… và chính sách đối với quỹ đất này cũng cần được ứng xử như chính sách đối với quỹ đất dành để phát triển chợ đầu mối; đầu tư nâng cấp hạ tầng thương mại nội địa. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện tiếp cận mặt bằng kinh doanh bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế.
Sử dụng biện pháp quy hoạch siêu thị là một trong những biện pháp quản lý phát triển siêu thị hiệu quả. Nhà nước cần tính đến số lượng, khoảng cách của các siêu thị, đại siêu thị sao cho thích hợp để tránh tình trạng tập trung quá nhiều siêu thị ở một địa bàn có thể dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh.
Chính sách hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thương mại
Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ có vai trò quan trọng trong việc quyết định quy mô và tính hiệu quả trong kinh doanh của hệ thống bán lẻ hiện đại. Cơ sở hạ tầng đồng bộ của hệ thống phân phối gồm: việc quy hoạch mạng lưới, đầu tư xây dựng mới các siêu thị, đại siêu thị, các chợ đầu mối, trung tâm bán buôn, toàn bộ hoạt động Logistic từ khâu thu mua, chế biến, bảo quản dự trữ, hệ thống kho tàng, vận chuyển điều phối, hệ thống trang thiết bị và các công cụ bán hàng… Cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ sẽ tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa hệ thống phân phối nói chung và hệ thống bán lẻ hiện đại nói riêng.
Chính sách tăng cường công tác dự báo thông tin thị trường
Trong thời gian tới, nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác thông tin dự báo thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại. Nhà nước cần hỗ trợ và phối hợp với các doanh nghiệp để dự báo nhu cầu hàng hóa trên thị trường, xu hướng biến động của giá cả, đặc biệt trong việc dự báo dài hạn và định kỳ để các doanh nghiệp có định hướng kinh doanh. Khi có được thông tin chính xác, các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại sẽ lập kế hoạch nhập khẩu, thu mua dự trữ hàng hóa để phục vụ nhu cầu thị trường, tránh tình trạng khan hiếm hoặc dư thừa hàng hóa trong những hoàn cảnh bất lợi.
Chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực
Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại trong việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho kinh doanh siêu thị và có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tự đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. Ngoài ra, nhà nước cần quan tâm đúng mức tới việc thúc đẩy
trao đổi thông tin, kinh nghiệm trong và ngoài nước trong hình thúc bán lẻ hiện đại, thông qua đầu tư kinh phí cử cán bộ đi khảo sát học tập kinh nghiệm của nước ngoài hoặc tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề cho các nhà quản lý siêu thị, trung tâm thương mại… Nhà nước có thể đứng ra mở các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho các nhà quản lý. Các lớp này nên mời các chuyên gia nước ngoài giàu kinh nghiệm giảng dạy, hoặc các nhà lãnh đạo cao cấp của các tập đoàn bán lẻ thành công trên thế giới. Bên cạnh đó, nhà nước thường xuyên tổ chức các cuộc họp, hội thảo trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để trao đổi nguyện vọng, kịp thời giải quyết các vướng mắc nảy sinh.
3.5.1.3.Phối hợp trong công tác quản lý hệ thống bán lẻ hiện đại
Hiện nay, Bộ Công Thương là cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, nhưng việc cấp phép cho các nhà dầu tư nước ngoài vào lĩnh vực phân phối bán lẻ lại thuộc thẩm quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Có thể Bộ Công Thương nhận thấy những bất hợp lý trong quy hoạch phát triển, nhưng lại không có thẩm quyền điều phối. Chưa kể vai trò của UBND các tỉnh thành cũng là rất lớn. Vì vậy, cần có chính sách phối hợp để có thể quản lý và định hướng tốt nhất cho phát triển hệ thống bán lẻ hiện đại.
Các loại hình bán lẻ hiện đại đang phát triển rất nhanh (đặc biệt là sẽ bùng nổ các siêu thị), trong khi đó năng lực quản lý của nhà nước vẫn chưa thay đổi đáp ứng với đòi hỏi mới. Các biện pháp quản lý cũ của loại hình truyền thống không thể áp dụng cho hệ thống hiện đại, mà cần có các tiêu chuẩn quản lý chặt chẽ nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, công tác thanh tra giám sát cần được đổi mới và đặc biệt tập trung vào các vấn đề cụ thể như sau:
- Xây dựng quy chế thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với từng loại hình bán lẻ phù hợp với mục tiêu quản lý của nhà nước và đặc thù kinh doanh của mỗi loại hình.
- Kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, xuất xứ hàng hóa, chất lượng hàng hóa, thời gian sử dụng… Đồng thời, cần có một hệ thống quản lý chất lượng hàng hóa thống nhất trên toàn quốc để thuận lợi trong quản lý.
- Kiểm tra tính minh bạch rõ ràng trong việc niêm yết giá. Đây là biện pháp đặc biệt quan trọng để tránh tình trạng các doanh nghiệp sử dụng công cụ giá cả để cạnh tranh không lành mạnh, nhất là nguy cơ các tập đoàn nước ngoài nhờ tiềm lực lớn về tài chính chấp chịu lỗ để thu hút khách hàng, từ đó thâu tóm thị trường.
- Giám sát chất lượng các chương trình hoạt động khuyến mại hạ giá của các siêu thị, trung tâm thương mại. Hiện nay các siêu thị thường áp dụng thời gian khuyến mại để thu hút khách hàng, nhưng có một số cơ sở biến đây trở thành biện pháp để tiêu thụ hàng tồn, hàng kém chất lượng… Qua khảo sát cho thấy nhiều chương trình khuyến mại chỉ cung cấp thông tin mập mờ, gây nhầm lẫn cho khách hàng.
3.5.1.4.Khuyến khích các doanh nghiệp bán lẻ thực hiện liên kết
Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay vẫn đang hoạt động riêng lẻ, thiếu sự gắn kết để chia sẻ lợi ích và kinh nghiệm kinh doanh. Nhà nước nên đóng vai trò là "chất keo" cho sự "kết dính" của các doanh nghiệp. Mới đây, dưới sự chủ động của các doanh nghiệp bán lẻ lớn, sự hỗ trợ của Bộ Công thương, Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam đã được thành lập với 130 thành viên là các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực bán lẻ. Trong thời gian tới, nhà nước nên hỗ trợ để hiệp hội phát huy tốt vai trò của mình, tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa các thành viên. Đồng thời, hiệp hội bán lẻ cũng giúp tăng sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trước các tập đoàn nước ngoài.
Các bộ ngành và địa phương liên quan cần đứng ra vận động và hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước liên kết lại thành những tập đoàn phân phối bán lẻ lớn, xây dựng những thương hiệu mạnh, phát triển thành các chuỗi siêu thị, cửa hàng với nhiều quy mô khác nhau ở thành phố, thị xã, thị trấn để tập
hợp sức mạnh, nâng cao sức cạnh tranh, gia tăng thị phần. Với tiềm lực vốn lớn hơn, mạng lưới kinh doanh được mở rộng các doanh nghiệp trong nước sẽ tạo được sức mạnh tổng hợp để tăng hiệu quả kinh doanh.
3.5.1.5.Phát triển hài hòa hệ thống bán lẻ hiện đại và truyền thống
Các nghiên cứu cho thấy trong vòng 5 năm tới, hệ thống bán lẻ Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi lớn theo hướng hiện đại hóa. Các siêu thị, cửa hàng tiện lợi phát triển rộng khắp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng.
Kênh phân phối truyền thống như chợ, các tiệm tạp hóa, cửa hàng bán sỉ, bán lẻ... hiện chiếm tới 90% mạng lưới phân phối tại Việt Nam sẽ gặp khó khăn lớn khi tập đoàn bán lẻ nước ngoài gia nhập thị trường bán lẻ. Mạng lưới phân phối "khổng lồ" về số lượng với gần 350.000 cửa tiệm tạp hóa và hơn
9.000 chợ phân bố trên cả nước nhưng tại rất lạc hậu này đang mất dần ưu thế trước hệ thống phân phối hiện đại và không loại trừ phải đứng trước khả năng phá sản, nhất là tại các đô thị, khi áp lực cạnh tranh trên thị trường bán lẻ sắp tới sẽ tăng rất mạnh.
Giải pháp đặt ra là nhà nước nên khuyến khích phát triển nhanh hệ thống bán lẻ hiện đại tại các khu vực thành thị, khuyến khích các doanh nghiệp phân phối phát triển hệ thống và liên kết theo chuỗi (chuỗi siêu thị, chuỗi trung tâm thương mại, chuỗi cửa hàng tiện lợi…). Từng bước vận động các tiệm, cửa hàng tạp hóa, cửa hàng bán lẻ độc lập và truyền thống, các hộ kinh doanh có thể gia nhập vào hệ thống chuỗi cửa hàng tiện lợi, cửa hàng chuyên doanh. Đây là biện pháp hiện đại hóa hệ thống bản lẻ truyền thống để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Từng bước chuyển các chợ nhỏ, chợ dân sinh thành các siêu thị, cửa hàng tiện lợi; hạn chế xây dựng mới các chợ trong khu vực nội thành do quỹ đất đã ở tình trạng eo hẹp.
Tại nông thôn, hệ thống chợ và mạng lưới bán lẻ truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng và là kênh phân phối hàng hóa chủ yếu trong những năm tới. Do vậy cần cải tạo, nâng cấp các chợ để phục vụ người dân tốt hơn, với
những vùng nông thôn có điều kiện có thể thí điểm mở các cửa hàng chuyên doanh, siêu thị loại nhỏ.
Với các chính sách phù hợp, nhà nước có thể dần chuyển dịch hệ thống bán lẻ theo hướng hiện đại mà vẫn hạn chế được sự biến động quá lớn. Thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ hiện đại hóa nhưng vẫn có thể duy trì song song 2 hệ thống bán lẻ hiện đại và truyền thống, giống như Nhật Bản hay Hàn Quốc đã thực hiện thành công.
3.5. 1.6.Các giải pháp khác
Vấn đề xây dựng và bảo vệ thương hiệu của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện còn nhiêu hạn chế, nhà nước nên đóng vai trò hướng dẫn và trợ giúp các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu.
Cuối cùng tuy Việt Nam bị ràng buộc bởi các cam kết WTO và nguyên tắc MFN, NT nhưng nhà nước không nên cho phép các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đầu tư tràn lan dẫn đến nguy cơ thâu tóm thị trường nội địa. Nhà nước cần phải khéo léo dựng lên các rào cản kỹ thuật để bảo vệ thị trường bán lẻ trong nước như hạn chế số lượng siêu thị hay trung tâm thương mại của các tập đoàn bán lẻ nước ngoài, quy định chặt chẽ về quy mô, phạm vi, số lượng, khoảng cách... khi các nhà đầu tư muốn mở thêm địa điểm kinh doanh mới.
Những giải pháp từ phía nhà nước chủ yếu thuộc về chính sách và pháp lý, nếu làm tốt và khôn khéo thì đây sẽ là những biện pháp có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ kinh doanh bán lẻ, giúp các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam ngày càng lớn mạnh đủ sức cạnh tranh với các công ty nước ngoài.
3.5.2. Giải pháp đối với các doanh nghiệp bán lẻ hiện đại
Bên cạnh sự hỗ trợ từ phía chính phủ, điều quan trọng nhất là các doanh nghiệp bán lẻ phải tự mình nâng cao hiệu quả kinh doanh, tự hoàn thiện mình trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt, góp phần xây dựng hệ thống bán lẻ hiện đại tại Việt Nam. Để làm được điều đó, các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược phát triển riêng phù hợp với đặc thù đơn vị mình.
3.5.2.1.Thay đổi nhận thức kinh doanh và xây dựng phong cách chuyên nghiệp