tặng cho những điều kiện tuyệt vời cho các loài động, thực vật quý hiếm phát triển như: loài Báo tuyết, Cừu xanh, hơn 100 chủng loại phong lan và một trong các khu rừng Đỗ quyên lớn nhất thế giới. Phần lớn dân cư sống ở đây là tá điền, sống dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên có sẵn trong khu vực và phát triển các hệ thống quản lý truyền thống của riêng họ.
Trong vòng hai thập kỷ qua các hoạt động du lịch được triển khai ở vùng này và phát triển một cách chóng mặt đã làm nguồn tài nguyên thiên nhiên ở đây bị khai thác tới mức giới hạn và KBT đã rơi vào bờ vực của sự khủng hoảng.
Hằng năm có hơn 36.000 khách ưu mạo hiểm đã tới Annapurna, để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của phong cảnh và thưởng thức sự độc đáo của các bản sắc văn hóa bản địa, tạo nguồn thu nhập lớn cho nhiều người ở cộng đồng địa phương, nhưng nó cũng đã tạo nên một số vấn đề về môi trường nghiêm trọng. Rừng bị chặt hạ để làm nhiên liệu nấu ăn, sưởi ấm và làm nhà nghỉ, sự ô nhiễm nguồn nước, hệ thống xử lý rác yếu đã làm rác lan tràn trên các tuyến đường và các khu có hoạt động du lịch, cộng thêm sự gia tăng dân số nhanh.
Hoạt động du lịch sinh thái là một trong những nguồn thu nhập ngoại tệ chính của Nê Pan, nhưng lại không đếm xỉa đến những người dân địa phương. Chính vì thế những tác động tiêu cực của hoạt động du lịch lại càng trở nên trầm trọng. Trước những nhu cầu đó mà năm 1986 đã xuất hiện dự án xây dựng khu bảo tồn Annapurna. Dự án đề cập đồng thời 3 khía cạnh chính là: Bảo tồn thiên nhiên, phát triển nhân lực và quản lý du lịch.
Mục tiêu của dự án là bảo vệ môi trường tự nhiên và văn hóa vùng Annapurna vì lợ ích của 40.000 dân cư trong vùng cũng như du khách quốc tế, song song với hoạt động nâng cao nhận thức của họ về sự mong manh của Môi trường.
Các hoạt động đã chia ra làm 8 nhóm bao gồm: Bảo tồn rừng, các nguồn năng lượng thay thế, giáo dục bảo tồn, quản lý du lịch, phát triển cộng đồng, sức khỏe và vệ sinh cộng đồng, các ủy ban quản lý cộng đồng, nghiên cứu.
Kết quả dự án sau 5 năm thực hiện, khắp nơi trên vùng Annapurna đã chứng kiến sự thay đổi theo chiều hướng tốt trong việc bảo vệ môi trường, văn hóa bản địa, mức sống của người dân được nâng lên, khách du lịch có được cảm giác tốt hơn khi các dịch vụ được nâng lên, mặt khác họ hiểu được rằng du lịch sinh thái không chỉ là những trải nghiệm mà còn giúp cho đời sống người dân ở đây, giúp ích cho hoạt động bảo tồn, bảo vệ môi trường.
b. Các bài học kinh nghiệm được rút ra từ những mô hình Du lịch Sinh thái ở các VQG trên thế giới.
Qua việc tìm hiểu hoạt động DLST ở các VQG trên thế giới, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm khi tiến hành hoạt động DLST ở VQG của Việt nam nói chung và VQG Tam Đảo nói riêng.
+ Cần thay đổi quan niệm của mọi người về bảo tồn và phát triển. Giáo dục tuyên truyền để nâng cao nhận thức của các đối tượng trực tiếp hoặc gián tiếp sử dụng tài nguyên đến các tầng lớp nhân dân.
+ Cần có cơ chế quản lý phù hợp trong đó có sự tham gia của người dân địa phương theo phương châm: "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" để có thể quản lý tài nguyên và hoạt động du lịch hiệu quả. Đảm bảo tính thống nhất giữa các cơ quan quản lý. Quản lý chặt chẽ việc cấp phép xây dựng và hoạt động của các cơ sở dịch vụ DLST, tránh tình trạng xây dựng ồ ạt, lấn chiếm đất, phá vỡ cảnh quan tự nhiên và làm mất cân đối cung cầu trong vùng dự án.
+ Cần có chính sách phù hợp nhằm phân phối rộng rãi hơn thu nhập du lịch. Thu nhập du lịch phải được sử dụng để duy trì hoạt động du lịch và phát triển cộng
đồng địa phương, tránh tình trạng thu nhập chỉ tập trung vào một nhóm nhỏ, còn đa số người dân địa phương không được hưởng lợi gì từ việc phát triển DLST.
+ Cần có phương án sử dụng các nguồn năng lượng sạch thay thế như: điện mặt trời, điện sản xuất bằng nguyên liệu khí bio-gas, sử dụng khí bio-gas sản xuất từ chất thải chăn nuôi để đun nấu thay thế cho nhiên liệu gỗ, củi vừa giúp bảo vệ môi trường.
+ Tuyên truyền, giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong các trường học, trong cộng đồng địa phương và khách du lịch. Xây dựng mối quan hệ tương hỗ giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương và cơ quan quản lý các đơn vị rừng đặc dụng nhằm bảo vệ tài nguyên và phát triển du lịch bền vững.
+ Khôi phục và phát triển các nghề truyền thống của địa phương phục vụ nhu cầu của khách du lịch như: sản xuất đồ lưu niệm, chăn nuôi, trồng trọt... Tạo ra và duy trì thu nhập cho người dân địa phương.
c. Thực trạng Du lịch sinh thái ở các VQG của Việt Nam
Ở Việt Nam hiện nay mặc dù là một đất nước có tiềm năng lớn về du lịch sinh thái song sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Mặc dù được đánh giá là có tiềm năng song DLST ở các Khu Bảo tồn và VQG ở Việt Nam nói chung và ở Vườn Quốc gia Tam Đảo nói riêng vẫn chưa phát triển xứng với tiềm năng. [13], [20].
Các hoạt động DLST thường bao gồm: Nghiên cứu, tìm hiểu các hệ sinh thái; tham quan, tìm hiểu đời sống động thực vật hoang dã, và văn hóa bản địa. Tuy nhiên, du khách đến các VQG mới chỉ tiếp cận được các hệ sinh thái rừng, các loài thực vật, và một số loài côn trùng. Rất hiếm khi du khách bắt gặp thú trong rừng. Chỉ ở VQG Cát Tiên du khách có thể quan sát được một số loài thú lớn như hươu, nai, lợn rừng, cầy, chồn, nhím ....vào ban đêm. Tại Cúc Phương đã xây dựng khu nuôi thú bán hoang dã để bảo tồn và phục vụ khách tham quan. Khu cứu hộ các loài linh trưởng, trạm cứu hộ rùa và cầy vằn tại VQG Cúc Phương cũng là điểm dừng chân thú vị cho khách du lịch.
Các hệ sinh thái đất ngập nước với nhiều loài chim nước và các loài thuỷ sinh cũng đang thu hút nhiều khách du lịch. VQG Xuân Thuỷ, với hệ sinh thái rừng ngập mặn là nơi cư trú của hàng trăm loài chim, nổi tiếng nhất là loài Cò thìa. KBTTN Vân Long (Ninh Bình) bao gồm cả hệ sinh thái đất ngập nước và hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi. Tại đây du khách có thể ngắm nhìn từng bầy Voọc mông trắng và quan sát nhiều loài sinh vật thuỷ sinh và các loài chim nước như Sâm cầm. VQG Tràm chim là nơi bảo tồn hệ sinh thái tự nhiên Đồng Tháp Mười với loài đặc hữu là Sếu đầu đỏ đã thu hút hàng nghìn khách du lịch mỗi năm.
Các khu DLST biển nổi tiếng như Cát Bà, Hòn Mun, Côn Đảo, Phú Quốc đã và đang có kế hoạch sử dụng tài nguyên sinh vật biển để phát triển nhiều dịch vụ du lịch hấp dẫn như xem rùa đẻ, khám phá các rạn san hô, và cỏ biển…..
Hầu như khách đi DLST đều muốn trải nghiệm thực tế bằng cách khám phá các KBTTN, hệ sinh thái nông nghiệp, và trải nghiệm cuộc sống đời thường của người dân Việt Nam ở các vùng miền cùng với nhiều lễ hội truyền thống và nền văn hóa bản địa đặc sắc.
Tuy có nhiều tiềm năng phát triển DLST song lượng khách đến các KBTTN Việt Nam còn rất thấp. Theo báo cáo điều tra đánh giá hiện trạng bảo tồn thiên nhiên, giáo dục môi trường, DLST ở hệ thống các khu rừng đặc dụng Việt Nam năm 2006 thì lượng khách du lịch đến các khu rừng đặc dụng trong một năm dưới 2.000 khách chiếm 44,7%; từ 2.000 - 10.000 khách chiếm 32% và trên 10.000 khách chiếm 21,4%.
Theo số liệu điều tra của đề tài nghiên cứu đề xuất tiêu chí khu DLST ở Việt Nam (2009) thì phần lớn là khách du lịch đến các VQG và KBTTN là khách nội địa (chiếm tới 80% tổng lượng khách) và cũng chưa thể thống kê được có bao nhiêu khách là khách DLST đích thực. Tuy nhiên có những điểm thu hút được đa số khách du lịch quốc tế, điển hình là KBTTN đất ngập nước Vân Long với trên 82,3% lượng khách đến
tham quan du lịch là khách quốc tế. Năm 2006, KBTTN Vân Long đã đón được trên
40.000 lượt khách du lịch quốc tế.
Các công ty du lịch như Buffalow Tours, Exotissimo, Hanspand, Wild Lotus ... đã và đang tổ chức thành công một số tour DLST đến các KBTTN và đã xây dựng được các trang web riêng để quảng bá, xúc tiến DLST cho riêng mình. [20]
Một số mô hình DLST cộng đồng đã hình thành, như ở Bản Khanh (VQG Cúc Phương), Bản Pác Ngòi (VQG Ba Bể), thôn Chày Lập (VQG Phong Nha Kẻ Bàng), bản A Đon (VQG Bạch Mã),….Do khó khăn trong khâu tiếp thị nên chưa thu hút được nhiều khách du lịch, lợi ích mang lại cho người dân còn rất khiêm tốn.
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hỗ trợ cho phát triển DLST đã được xây dựng nhưng chất lượng và số lượng còn rất hạn chế. Nhiều khu DLST như VQG Cúc Phương, Bái Tử Long, Bạch Mã, Cát Tiên đã xây dựng trung tâm du khách/Trung tâm thông tin và các đường mòn thiên nhiên có các biển diễn giải. Qua các hiện vật trưng bày là các tiêu bản động thực vật, các mô hình mô tả hệ sinh thái và nhiều thông tin, tài liệu trưng bày trong Trung tâm làm cho du khách đã thấy được sự ĐDSH và ý nghĩa của việc thành lập VQG. Đây còn là nơi triển khai hoạt động giáo dục môi trường cho khách tham quan du lịch.
Nhiều khóa tập huấn về DLST và giáo dục môi trường đã được các dự án, các tổ chức quốc tế (JICA, WWF, IUCN…), Cục Kiểm lâm và Hiệp hội VQG và KBTTN Việt Nam triển khai cho các đối tượng liên quan.
Công tác quy hoạch phát triển DLST đã được tiến hành ở một số nơi như: VQG Cúc Phương, Ba Vì, Côn Đảo, Phong Nha Kẻ Bàng, Yokdon, Bạch Mã…
Một số chính sách có liên quan đến phát triển DLST đã được ban hành, như Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, nghị định 23 về hướng dẫn thực hiện luật bảo vệ và phát triển rừng, quyết định số 186/2006/QĐ-TTg, ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế quản lý rừng đặc dụng; Quyết định số 104/2007/QĐ-BNN, ngày 27/12/2007 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn về Quản lý các hoạt động DLST tại các Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập, song đã đáp ứng được phần nào nhu cầu của các hoạt động DLST và bảo tồn thiên nhiên. Tuy đã có một số chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân có thể tham gia đầu tư và quản lý hoạt động DLST ở các VQG, nhưng cho đến nay hoạt động DLST ở các VQG chủ yếu vẫn do các VQG tự tổ chức, vận hành. Lợi ích từ hoạt động DLST vẫn chưa đến được với những cộng đồng địa phương một cách đầy đủ.
d. Thực trạng du lịch sinh thái ở Vườn Quốc gia Tam Đảo
Vườn quốc gia Tam Đảo với nhiều cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, địa hình chia cắt phức tạp đã tạo cho nơi đây rất phong phú và đa dạng về các loài động thực vật và trong đó có nhiều loài đặc hữu, quý hiếm được ghi trong sách đỏ của Việt Nam và thê giới, thêm vào đó thiên nhiên đã ban tặng cho Vườn quốc gia Tam Đảo một tiểu vùng khí hậu mát mẻ, trong lành mà ít nơi nào có được, bên cạnh đó còn có nhiều danh thắng nổi tiếng, nhiều di tích lịch sử, đền chùa miếu mạo như: danh thắng Tây Thiên, Thiền Viện Trúc Lâm, Tháp truyền hình,…Do vậy mà nơi đây rất giàu tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái, song cho đến nay mặc dù Vườn quốc gia Tam Đảo đã thành lập một trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái và giáo dục môi trường nhằm mục đích thúc đẩy, phát triển du lịch sinh thái của Vườn nhưng du lịch sinh thái của Vườn quốc gia Tam Đảo vẫn chưa được phát triển xứng với tiềm năng vốn có. Thực trạng chung ở các Vườn quốc gia và KBTTN ở Việt Nam hiện nay vẫn đang trú trọng vào công tác bảo vệ tài nguyên rừng là chủ yếu, còn du lịch sinh thái chưa được quan tâm đúng mức hay chưa được đầu tư thoả đáng cả về tài chính và nguồn nhân lực. Về nguồn nhân lực để phát triển du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Tam Đảo chủ yếu là lấy từ các ngành nghề khác chuyển sang như: Kiểm Lâm, Kế Toán, nghiên cứu khoa học,…những cán bộ này mặc dù rất am hiểu về tài nguyên thiên nhiên của Vườn, cũng như đường đi của các tuyến, nhưng những cán bộ này lại không được đào tạo cơ bản về du lịch nói chung và
du lịch sinh thái nói riêng, nên họ rất khó khăn trong việc phát triển du lịch sinh thái, các hoạt động chủ yếu là tự phát chưa có kế hoạch hoạt động hệ thống, bài bản, hơn nữa trình độ ngoại ngữ của các cán bộ của các Vườn quốc gia, KBTTN nói chung, VQG Tam Đảo nói riêng còn rất nhiều hạn chế do vậy rất khó khăn trong việc hướng dẫn, giới thiệu tài nguyên của Vườn cho các du khách nước ngoài, do vậy những hướng dẫn viên ở trung tâm du lịch sinh thái mới chỉ là những người dẫn đường chứ chưa phải là một hướng dẫn viên. Ngoài ra về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng phục vụ cho du lịch sinh thái còn nghèo nàn, thiếu thốn chưa đáp ứng được các nhu cầu của du khách khi đến đây, mặc dù một số tuyến du lịch đã được hình thành nhưng không được tu bổ, bảo dưỡng định kỳ, trên tuyến không có các bảng chỉ dẫn, bảng thông tin nên tạo ra sự khó khăn khi thực hiện trên tuyến. Hơn nữa, cho đến nay thì Vườn quốc gia Tam Đảo vẫn chưa có bản quy hoạch được khu vực để phát triển du lịch sinh thái, điều này gây khó khăn cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cho các doanh nghiệp thuê dịch vụ môi trường rừng để phát triển du lịch sinh thái ,…
Bảng 1.1. Số lượng khách đến tham quan VQG Tam Đảo 2010 – 2012
2011 | 2012 | ||||
Trong nước | Quốc tế | Trong nước | Quốc tế | Trong nước | Quốc tế |
350 | 100 | 320 | 80 | 200 | 50 |
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 1
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 2
- Những Yêu Cầu Cơ Bản Đối Với Du Lịch Sinh Thái.
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 5
- Số Liệu Khí Tượng Của Các Trạm Trong Khu Vực Tam Đảo
- Vai Trò Vqg Tam Đảo Đối Với Bảo Tồn Đa Dạng Sinh Học Và Bảo Vệ Môi Trường Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ Và Việt Nam
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
(Nguồn: Trung tâm du lịch sinh thái và giáo dục môi trường – VQG Tam Đảo)
Chương 2
ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG, QUAN ĐIỂM VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Địa điểm, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.1. Địa điểm, đối tượng nghiên cứu
Địa điểm triển khai nghiên cứu là VQG Tam Đảo, vùng đệm của Vườn quốc gia Tam Đảo trên địa bàn 3 tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc.
Để đạt được mục tiêu trên thì đối tượng nghiên cứu của đề tài là: Các dạng tài nguyên có thể được khai thác phục vụ cho phát triển du lịch gồm các tài nguyên thiên nhiên (Hệ động thực vật, cảnh quan, thác, suối, hồ…) và các dạng tài nguyên nhân văn là các di tích văn hoá lịch sử, đền chùa, lễ hội phong tục tập quán,…Các giá trị có thể khai thác phục vụ cho phát triển du lịch.
2.1.2. Phạm vi nghiên cứu, thời gian nghiên cứu.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Tam Đảo, và các vùng phụ cận, cùng với các thể chế chính sách của việc phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học.
- Thời gian thực hiện đề tài từ tháng 6 năm 2012 đến tháng 12 năm 2012, các số liệu cập nhật cố gắng thực hiện đến sát thời gian nghiên cứu, với mong muốn có những số liệu gần nhất, mới nhất nhằm đưa ra được định hướng sát thực cho việc phát triển DLST ở VQG Tam Đảo.
2.2. Nội dung nghiên cứu
a. Cơ sở lý luận về du lịch sinh thái ở VQG và KBTTN.
b. Đặc điểm tài nguyên du lịch sinh thái tại Vườn Quốc gia Tam Đảo. Tài nguyên đa dạng sinh học, điều kiện dân sinh kinh tế của dân cư các xã vùng