MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Giá trị Đa dạng sinh học là không thể thay thế được đối với sự tồn tại và phát triển của Thế giới sinh học trong đó đặc biệt là con người. Do vậy Bảo tồn đa dạng sinh học đang ngày càng trở nên cấp thiết và có thể nói là vấn đề quan tâm của toàn xã hội và đặc biệt đối với các Vườn Quốc gia và Khu Bảo tồn Thiên nhiên, vì đây là nơi trực tiếp tham gia thực hiện công tác quản lý và bảo tồn đa dạng sinh học hiệu quả nhất.
Việt Nam là một quốc gia được các nhà khoa học đánh giá có tính đa dạng sinh học cao. Nhưng hiện nay với tốc độ phát triển của mọi ngành nghề, cùng với nền kinh tế thị trường đang làm cho đất nước ngày một giàu mạnh, mức sống mỗi người ngày được nâng cao dẫn đến nhu cầu của con người ngày càng cao. Tuy nhiên, các hoạt động phát triển này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tính đa dạng sinh học của Việt Nam nói chung và các vùng sinh thái trọng điểm nói riêng.
Du lịch sinh thái được coi là một trong những cách thức vừa hỗ trợ bảo tồn đồng thời Phát triển kinh tế xã hội một cách bền vững. Tại đại hội các Vườn Quốc gia thế giới lần thứ V do IUCN tổ chức đã khẳng định “Du lịch Sinh thái ở trong và ngoài khu bảo tồn là một phương pháp bảo tồn: hỗ trợ, tăng cường nhận thức về các giá trị quan trọng của Khu bảo tồn như giá trị sinh thái, văn hóa, tinh thần, thẩm mỹ, giải trí và kinh tế; đồng thời tạo thu nhập phục vụ bảo tồn và bảo vệ đa dạng sinh học, hệ sinh thái và di sản văn hóa. Du lịch sinh thái cũng đóng góp nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng bản địa... [6].
Trong những năm gần đây trong cuộc phát triển chung của xã hội, lĩnh vực du lịch sinh thái và bảo tồn trên thế giới cũng đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Quan trọng nhất là việc du lịch sinh thái không còn chỉ tồn tại như một khái niệm hay một đề tài để suy ngẫm. Ngược lại, nó đã trở thành hướng phát triển mang tính thời sự trên
toàn cầu. Hơn lúc nào hết khi vấn đề phát triển kinh tế xã hội hiện nay đang được đặt ra trên quan điểm phát triển bền vững, thì việc phát triển du lịch sinh thái được xem là một công cụ hiệu quả đáp ứng được mục tiêu là phát triển kinh tế và bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường.
Du lịch sinh thái đã mang lại nhiều lợi ích cụ thể trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển bền vững. Ở CốstaRica và Nê Pan, Thái Lan… một số chủ trang trại chăn nuôi đã bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng, và do bảo vệ rừng mà họ đã biến những nơi đó thành điểm du lịch sinh thái hoạt động tốt, giúp bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên đồng thời tạo ra công ăn việc làm mới cho dân địa phương. Ecuado sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapze để giúp duy trì toàn bộ mạng lưới Vườn quốc gia. Tại Nam Phi, du lịch sinh thái trở thành một biện pháp hiệu quả để nâng cao mức sống của người da đen ở nông thôn, những người da đen này, ngày càng tham gia nhiều vào các hoạt động du lịch sinh thái; Chính phủ Nhật Bản cũng tích cực khuyến khích phát triển du lịch sinh thái với những chính sách rõ ràng, thành lập các đơn vị chuyên trách và các quỹ nhằm duy trì và phát triển nghành Du lịch hướng tới thiên nhiên để tăng cường công tác bảo vệ thiên nhiên và phát triển du lịch quốc gia. Theo Báo cáo về Xu hướng du lịch của khách du lịch Nhật Bản do Công ty Giao thông Nhật Bản thực hiện vào năm 2004, loại hình du lịch được khách du lịch Nhật Bản ưa thích nhất là du lịch tắm suối nước nóng (chiếm 57,9 % số người được hỏi). Xếp thứ 2 là du lịch hướng tới thiên nhiên (45,7%). Nhận thức về du lịch sinh thái của người dân cũng cải thiện rõ rệt trong những năm gần đây[9].
Tại Úc và Niu zi lân, phần lớn các hoạt động du lịch đều có thể xếp vào hạng du lịch sinh thái. Đây là ngành công nghiệp được xếp hạng cao trong nền kinh tế của cả hai nước. Nằm ở khu vực Đông Nam Á, nơi có các hoạt động du lịch sôi nổi. Việt Nam có những lợi thế về vị trí địa lý, kinh tế và giao lưu quốc tế cho sự phát triển du lịch phù hợp với xu thế của thế giới và khu vực. Tại Việt Nam, du lịch đang dần dần trở
Có thể bạn quan tâm!
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 1
- Những Yêu Cầu Cơ Bản Đối Với Du Lịch Sinh Thái.
- Số Lượng Khách Đến Tham Quan Vqg Tam Đảo 2010 – 2012
- Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học - 5
Xem toàn bộ 149 trang tài liệu này.
thành ngành kinh tế quan trọng và trong tương lai gần hoạt động du lịch được coi như là con đường hiệu quả nhất để thu ngoại tệ và tăng thu nhập cho đất nước. Việt Nam là đất nước có nhiều tiềm năng về nguồn lực du lịch cả về tự nhiên lẫn nhân văn. Khách nước ngoài đến Việt Nam đều đánh giá cao vẻ đẹp đất nước ta. Hàng loạt các địa danh có thể sử dụng phục vụ khách du lịch, bên cạnh đó nhiều điểm vẫn còn chưa được khai thác. Thật khó mà liệt kê hết tất cả những điểm có sức thu hút khách. Cùng với sự phát triển của du lịch nói chung, trong những năm gần đây du lịch sinh thái Việt Nam cũng phát triển nhanh chóng. Mặc dù Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để phát triển du lịch sinh thái, xong cho đến nay thì chúng ta vẫn chưa khai thác được nhiều những tiềm năng này và du lịch sinh thái chưa được phát triển xứng tầm với tiềm năng vốn có và đang đứng trước nhiều thách thức to lớn.
Vườn quốc gia Tam Đảo được thành lập năm1996 với diện tích là 34.995ha, nằm trên địa phận của 3 tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang và Vĩnh Phúc.Tam Đảo là một dãy núi chạy dài 80 Km, có chiều rộng từ 10 – 15Km, với nhiều hệ sinh thái rừng khác nhau và địa hình đồi núi, chia cắt phức tạp đã tạo cho Vườn quốc gia Tam Đảo rất phong phú và đa dạng về các loài động thực vật. Theo các nhà khoa học đã điều tra và thống kê được ở Vườn quốc gia Tam Đảo có 1436 loài thực vật thuộc 741 chi trong 219 họ của 6 ngành thực vật, trong đó 58 loài mang nguồn gen quí hiếm và 68 loài đặc hữu có tên trong sách đỏ của Việt Nam và sách đỏ thế giới. Một số loài quí hiếm như: Kim Tuyến ( Anvectochitus setaceus), Vù Hương (Cinnamomum balansae), Kim Giao (P.fleuryi), Dẻ tùng sọc trắng (Sam bong) (Amentotaxus argotaenia), Trầm hương (Aquilaria crassna)…Có 1141 loài động vật thuộc 150 họ của 39 bộ, trong đó có 70 loài Thú, 239 loài Chim, 124 loài Bò sát, 57 loài Lưỡng cư, 651 loài Côn trùng. Có nhiều động vật đặc hữu và quí hiếm như: Cá cóc Tam Đảo, Rắn Sãi angen, Rắn Ráo thái dương, Gà Tiền mặt vàng, Gà so họng trắng, Sếu xám,…thêm vào đó thiên nhiên đã ban tặng cho Vườn quốc gia Tam Đảo nhiều cảnh quan đẹp với nhiều suối thác, núi rừng hung vĩ, khí hậu mát mẻ, trong lành làm đắm say lòng du khách, bên cạnh đó ở
vùng đệm của VQG Tam Đảo còn có 6 dân tộc anh em sinh sống tạo cho nơi đây phong phú và đa dạng về bản sắc văn hoá, phong tục tập quán, cũng như về ẩm thực. Hơn nữa Vườn quốc gia Tam Đảo còn có một hệ thống quần thể đền chùa cổ kính, linh thiêng, nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, đã tạo cơ hội để phát triển du lịch tâm linh, về với cội nguồn. Đây chính là những tiềm năng to lớn để phục vụ cho du lịch sinh thái mà ít nơi có được, xong cho đến nay Vườn quốc gia Tam Đảo vẫn chưa có quy hoạch du lịch sinh thái cụ thể, mặc dù đã có trung tâm dịch vụ du lịch sinh thái và giáo dục môi trường nhưng trung tâm này vẫn chưa khai thác được hết tiềm năng về du lịch sinh thái của Vườn, do vậy du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Tam Đảo còn nhiều hạn chế, chưa thu hút được nhiều khách đến tham quan, nghỉ mát và đóng góp cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học của Vườn. Chính vì những lý do trên, Tôi đã quyết định chọn đề tài nguyên cứu: “ Phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo trong bảo tồn đa dạng sinh học”.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
a. Mục tiêu tổng thể: Nghiên cứu, xây dựng giải pháp phát triển du lịch sinh thái nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư thuộc các xã vùng đệm Vườn quốc gia Tam Đảo.
b. Mục tiêu cụ thể:
- Tổng quan một số vấn đề về du lịch sinh thái trên thế giới và Việt Nam.
- Đánh giá tài nguyên Du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo.
- Xây dựng và đề xuất định hướng phát triển du lịch sinh thái Vườn quốc gia Tam Đảo.
- Xác định được một số ảnh hưởng qua lại giữa du lịch sinh thái với bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn quốc gia Tam Đảo.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu được thực hiện trong khu vực VQG Tam Đảo.
- Luận văn tập trung nghiên cứu và đánh giá các điều kiện tự nhiên (đa dạng sinh học, cảnh quan), văn hóa lịch sử ở VQG Tam Đảo và điều kiện kinh tế, xã hội vùng đệm. Từ đó đề xuất định hướng phát triển DLST hỗ trợ cho nỗ lực bảo tồn đa dạng sinh học.
4. KẾT QUẢ MONG ĐỢI CỦA ĐỀ TÀI
- Đề xuất được định hướng phát triển DLST nhằm hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn đa dạng sinh học ở VQG Tam Đảo.
- Xác định được một số ảnh hưởng qua lại giữa DLST, bảo tồn đa dạng sinh học và cộng đồng dân cư vùng đệm của VQG Tam Đảo, từ đó nêu lên các vấn đề cần quan tâm khi phát triển DLST ở VQG Tam Đảo.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
a.Ý nghĩa khoa học:
+ Đây là nghiên cứu đầu tiên về Du lịch sinh thái ở VQG Tam Đảo.
+ Kết quả của đề tài là đưa ra được đề xuất về phát triển du lịch sinh thái ở VQG Tam Đảo nhằm tăng cường công tác bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Đưa ra giải pháp, kiến nghị dung hòa được mâu thuẫn của người dân và công tác bảo tồn.
b. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài là một sản phẩm có giá trị thực tiễn có khả năng áp dụng triển khai phát triển du lịch sinh thái và bảo tồn đa dạng sinh học ở VQG Tam Đảo.
6. CẤU TRÚC LUẬN VĂN
Luận văn được trình bày gồm có các phần; Mở đầu, mục đích, ý nghĩa, phạm vi nghiên cứu, tổng quan tài liệu, kết quả nghiên cứu và thảo luận, đề xuất phát triển du
lịch sinh thái ở VQG Tam Đảo, tài liệu tham khảo và phụ lục. Cấu trúc chính của luận văn được trình bày trong 4 chương cụ thể như sau:
Mở đầu
Chương 1: Tổng quan tài liệu
Chương 2: Đối tượng, phạm vi, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 4: Đề xuất phát triển du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Tam Đảo Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo Phụ lục
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ DU LỊCH SINH THÁI
1.1. Khái niệm về DLST, nguyên tắc và quan điểm phát triển DLST ở các vườn quốc gia.
1.1.1. Khái niệm
Ngày nay sự hiểu biết về du lịch sinh thái đã phần nào được cải thiện, thực sự đã có một thời gian dài du lịch sinh thái là chủ đề nóng của các hội thảo về chiến lược và chính sách bảo tồn và phát triển các vùng sinh thái quan trọng của các quốc gia và thế giới. Thực sự đã có nhiều nhà khoa học danh tiếng tiên phong nghiên cứu lĩnh vực này, điển hình như:
Hector Ceballos-Lascurain- một nhà nghiên cứu tiên phong về du lịch sinh thái, định nghĩa DLST lần đầu tiên vào năm 1987 như sau: "Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên ít bị ô nhiễm hoặc ít bị xáo trộn với những mục tiêu đặc biệt: nghiên cứu, trân trọng và thưởng ngoạn phong cảnh và giới động-thực vật hoang dã,
cũng như những biểu thị văn hoá (cả quá khứ và hiện tại) được khám phá trong những khu vực này" (trích trong bài giảng Du lịch sinh thái của Nguyễn Thị Sơn)[16].
Năm 1994 nước Úc đã đưa ra khái niệm “DLST là Du lịch dựa vào thiên nhiên, có liên quan đến sự giáo dục và diễn giải về môi trường thiên nhiên được quản lý bền vững về mặt sinh thái”[10].
Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ ( 1998) “DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương” [16].
Một định nghĩa khác của Honey (1999) “DLST là du lịch hướng tới những khu vực nhạy cảm và nguyên sinh thường được bảo vệ với mục đích nhằm gây ra ít tác hại và với quy mô nhỏ nhất. Nó giúp giáo dục du khách, tạo quỹ để bảo vệ môi trường, nó trực tiếp đem lại nguồn lợi kinh tế và sự tự quản lý cho người dân địa phương và nó khuyến khích tôn trọng các giá trị về văn hóa và quyền con người”[6].
Ở Việt Nam vào năm 1999 trong khuôn khổ hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch sinh thái đã đưa ra định nghĩa như sau: “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch thiên nhiên có mức độ giáo dục cao về sinh thái và môi trường có tác động tích cực đến việc bảo vệ môi trường và văn hóa, đảm bảo mang lại các lợi ích về tài chính cho cộng đồng địa phương và có đóng góp cho các nỗ lực bảo tồn”[6].
Năm 2000, Lê Huy Bá cũng đưa ra khái niệm về du lịch sinh thái "là một loại hình du lịch lấy các hệ sinh thái đặc thù, tự nhiên làm đối tượng để phục vụ cho những khách du lịch yêu thiên nhiên, du ngoạn, thưởng thức những cảnh quan hay nghiên cứu về các hệ sinh thái. Đó cũng là hình thức kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế du lịch với giới thiệu về những cảnh đẹp của quốc gia cũng như giáo dục tuyên truyền và bảo vệ, phát triền môi trường và tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững” [10].
Luật du lịch (2005), định nghĩa “Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững”. Theo quy chế quản lý các hoạt động du lịch sinh thái tại các Vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, do bộ Nông nghiệp và PTNT ban hành năm 2007, thì Du lịch Sinh thái được hiểu “ là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng dân cư ở địa phương nhằm phát triển bền vững”.
Theo Hiệp hội Du lịch Sinh Thái (The Internatonal Ecotourism society) thì “DLST là du lịch có trách nhiệm với các khu thiên nhiên là nơi bảo tồn môi trường và cải thiện phúc lợi cho nhân dân địa phương” [6]
Qua tìm hiểu các khái niệm trên ta có thể thấy rằng các khu bảo tồn và Vườn quốc gia là nơi phù hợp nhất, bởi đây chính là nơi có nhiều yếu tố hấp dẫn khách du lịch sinh thái.
Những yếu tố này có thể là một hoặc nhiều loài động thực vật quý hiếm và đặc hữu, cuộc sống hoang dã phong tục tập quán, tính đa dạng sinh học cao, địa hình hùng vĩ, các khu di tích lịch sử hoặc văn hóa đương đại, mang tính đặc thù trong điều kiện tự nhiên. Những yếu tố này sẽ làm lợi cho các đơn vị tổ chức du lịch sinh thái và cộng đồng địa phương do vậy các yếu tố này sẽ được bảo vệ tốt, chính đây là mối quan hệ giữa du lịch và các Khu bảo tồn và Vườn quốc gia.
Ở Việt Nam nói chung và ở Vườn quốc gia nói riêng, một yếu tố gây hấp dẫn cho khách du lịch đó là những thông tin về Đa dạng sinh học, những phát hiện mới về các loài động thực vật và những cảnh đẹp thiên nhiên. Tuy nhiên cũng phải khẳng định rằng các khách đến với các khu bảo tồn và Vườn quốc gia không hẳn là khách Du lịch sinh thái, mà họ chỉ có những sở thích về muốn khám phá cảnh đẹp, do vậy họ chỉ lưu lại những khu vực này với thời gian rất ngắn, họ không muốn có những trải nghiệm thực sự với thiên nhiên. Nhưng không là quan trọng miễn là chúng ta có cách quản lý