Phát triển du lịch nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - 7


- Cộng đồng nông thôn đóng vai trò chủ đạo: Giao tiếp giữa cộng đồng nông thôn và khách du lịch là một thành phần quan trọng của trải nghiệm nông thôn. Người dân địa phương giúp khách du lịch khám phá các vùng nông thôn và tận hưởng kinh nghiệm. Họ cũng chia sẻ kiến thức của họ về lịch sử, văn hóa và cấu trúc tự nhiên của khu vực. Người dân địa phương đóng vai trò như một nhà môi giới văn hóa, giảm khoảng cách giữa khách du lịch và điểm đến. Nói cách khác, người dân địa phương cho phép khách du lịch có trải nghiệm đi xa [93]. Người dân địa phương đóng góp vào kiến thức của khách du lịch về truyền thống và văn hóa dân gian, và kết quả là trải nghiệm DLNT của khách du lịch [104]. Mọi hoạt động DLNT diễn ra xung quanh cộng đồng dân cư, từ trải nghiệm môi trường xung quanh cộng đồng, trải nghiệm và tham gia trực tiếp vào hoạt động thường ngày của người nông dân: từ lưu trú, ăn uống, tham gia quá trình lao động sản xuất và hưởng những giá trị xung quanh cộng đồng tạo ra như phong cảnh làng quê, các di sản như các công trình kiến trúc, đình chùa, miếu mạo, các lễ hội truyền thống, các làng nghề, âm nhạc, ẩm thực, các hoạt động nông thôn như đạp xe, câu cá, đi bộ đường dài, săn bắn, cưỡi ngựa, cưỡi voi…

- Duy trì được các tính nông thôn đặc trưng và phát triển bền vững: bởi loại hình DLNT diễn ra dựa vào những đặc trưng của nông thôn

- Tạo ra những lợi ích về kinh tế và xã hội cho điểm đến nông thôn: DLNT phát triển cải thiện cuộc sống nông thôn, từ cơ sở hạ tầng: điện, đường, trường, trạm…, giáo dục nhận thức người dân cũng được tăng lên, tạo cảnh quan nông thôn đẹp hơn…

2.1.1.2. Đặc điểm và loại hình trong du lịch nông thôn

a) Đặc điểm du lịch nông thôn

Thông qua nghiên cứu các quan điểm, khái niệm và định nghĩa về DLNT có thể nhận thấy DLNT có những đặc điểm đặc trưng sau:

- DLNT phát triển mạnh mẽ dựa trên các đặc điểm cụ thể của thế giới nông thôn và bao gồm một chuỗi các hình thức du lịch khác nhau, tùy thuộc vào khu vực/vị trí nơi nó đang diễn ra (OECD). DLNT không chỉ dựa vào nông nghiệp mà nó còn bao hàm cả lâm, ngư nghiệp và tiểu thủ công nghiệp (biểu hiện ở các làng nghề truyền thống).


- Diễn ra và dựa vào các tài nguyên đặc trưng ở vùng nông thôn. Mọi quá trình du lịch của du khách đều diễn ra ở vùng nông thôn, từ tham quan, tham gia trải nghiệm, lưu trú, sinh hoạt, giải trí… đều dựa vào tài nguyên nông thôn và cuộc sống sinh hoạt, lao động sản xuất của cộng đồng dân cư nông thôn.

- Cộng đồng nông thôn đóng vai trò quan trọng, cốt lõi: DLNT liên quan đến bất kỳ hoạt động nào khiến cộng đồng nông thôn tham gia trực tiếp vào du lịch hoặc do họ có toàn quyền kiểm soát hoặc để văn hóa của họ là điểm thu hút [85]. Đồng thời không chỉ là tăng lợi ích ròng cho người dân nông thôn từ ngành du lịch mà là tăng cường sự tham gia của người dân địa phương vào việc quản lý sản phẩm du lịch [167]. Người hưởng lợi của loại hình du lịch này chính là cộng đồng nông thôn và các chủ sở hữu.

- Mục đích chung là DLNT sẽ góp phần phát triển khu vực nông thôn và bền vững.

- Thị trường khách du lịch chủ yếu là những du khách từ thành thị (trong nước) và thị trường khách du lịch quốc tế muốn tìm sự bình yên, độc đáo nơi làng quê yên bình.

- Sự tham gia đa dạng của nguồn nhân lực du lịch: từ người già, trẻ nhỏ đến phụ nữ trong cộng đồng. Đối với người già và trẻ nhỏ là một yếu tố tạo nên cuộc sống nơi làng quê. Người già có thể tham gia vào những câu chuyện lịch sử, truyền thống, tham gia truyền những kinh nghiệm về nghề truyền thống, giáo dục…cho khách du lịch. Phụ nữ tham gia vào các trải nghiệm của du khách hay trực tiếp tham gia vào các dịch vụ cho khách du lịch trong thời gian du lịch ở nông thôn.

b) Loại hình du lịch nông thôn

DLNT là một hoạt động phức tạp và nhiều mặt [98]. Do đó, nó bị nhầm lẫn với một số thuật ngữ như du lịch sinh thái (đôi khi được gọi là du lịch dựa vào thiên nhiên), du lịch nông trại, du lịch nông nghiệp hoặc du lịch mạo hiểm, du lịch cưỡi ngựa, du lịch ẩm thực và rượu.

Các nhà nghiên cứu đồng ý rằng những thuật ngữ này là tập hợp con của DLNT. DLNT có thể được coi là một khái niệm. Du lịch sinh thái được định nghĩa là du lịch có trách nhiệm với môi trường đến các khu vực tự nhiên còn hoang sơ để tận hưởng thiên nhiên và trải nghiệm các nét văn hóa trong quá khứ và hiện tại. Du lịch sinh thái chỉ giới hạn trong các khu vực tự nhiên, các khu vực nông trại hoặc



Phong tục canh tác

Sản phẩm thực phẩm địa phương

Nông sản (trang trại/

nông nghiệp)

Hàng thủ công mỹ nghệ địa

phương

Cách chế biến món ăn

Lối sống địa phương

Nghi thức/ lễ hội địa phương

Ngôn ngữ địa phương

Âm nhạc và các điệu nhảy địa phương

Du lịch giáo dục

địa phương

Thể thao địa phương

Chỗ ở

rừng đặc biệt. Nó thường liên quan đến các khu bảo tồn [98]. Nó có thể thụ động, trong đó một khách du lịch có thể quan sát thiên nhiên, hoặc chủ động, khách du lịch có thể tham gia vào một số hoạt động ngoài trời [36]. Du lịch nông trại bao gồm làm việc trong trang trại để ở lại qua đêm, hoặc thăm trang trại để tham quan hàng ngày [98]. Nó dựa trên truyền thống địa phương với các doanh nghiệp quy mô nhỏ. Tác nhân chính của du lịch nông trại là nông dân, những người này tham gia vào khâu hàng hóa, đóng gói và bán như một sản phẩm du lịch nông trại. Tuy nhiên, du lịch nông trại là một phần nhỏ của DLNT [115]. Du lịch nông nghiệp là hành động trong đó khách du lịch đến thăm một trang trại để trải nghiệm / thưởng thức, được giáo dục hoặc tham gia vào bất kỳ hoạt động nông nghiệp nào [36]. Du lịch mạo hiểm cũng xuất hiện ở các vùng nông thôn và liên quan đến các trải nghiệm mang tính chất mạo hiểm. Khách du lịch cũng cân nhắc rủi ro và nguy hiểm trong các hoạt động khi họ tham gia. Du lịch cưỡi ngựa là về các hoạt động như đi săn trên lưng ngựa ở các vùng nông thôn. Thực phẩm là động lực chính để tham quan một điểm đến trong du lịch ẩm thực và rượu. Tuy nhiên, đồ ăn và rượu có thể tạo ra một hình ảnh tốt cho DLNT [115].


Thuộc tính văn hóa

Thuộc tính tự nhiên

Thuộc tính lịch sử


Cảnh quan nông thôn

Môi trường tự nhiên

Không gian mở rộng

Săn bắn và bắt cá

Các hoạt động dựa trên

thiên nhiên

Đi bộ trong rừng

Du lịch sinh thái

Khám phá nông thôn

Lái xe safari

Leo núi/ cưỡi ngựa


Văn hóa dân gian

Di tích lịch sử nông thôn

Kiến trúc

Lịch sử

Di sản


Hình 2.7. Phân loại các hoạt động

du lịch nông thôn

Nguồn:Nair, V.; Munikrishnan, U. T.; Rajaratnam, S. D.; King, N. (2015) [112].


Điều quan trọng là sự đa dạng của các phương pháp tiếp cận được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng, nhấn mạnh khái niệm liên tục thành thị - nông thôn như một phương tiện thiết lập các mức độ khác nhau của “nông thôn” và các đặc điểm cơ bản của “nông thôn” (UNWTO, 2011). Ngược lại, Bhujbal & Joshi (2012) cho rằng một số yếu tố được xem xét trong các hình thức DLNT khác nhau, chẳng hạn như du lịch sinh thái, du lịch thiên nhiên, du lịch nông nghiệp và du lịch mạo hiểm (xem Hình 2.8).

Du lịch thông thường

Du lịch thay thế

Du lịch bền vững

Du lịch có trách nhiệm

Du lịch nông thôn

Hội chợ Thương mại

Du lịch địa chất

Du lịch sinh thái

Du lịch nông nghiệp

Bản địa

Giáo dục

Du lịch tự nhiên

Du lịch văn hóa

Du lịch dựa vào cộng đồng

Du lịch mạo hiểm

Hình 2.8. Các hình thức du lịch nông thôn

Nguồn: Bhujbal, M. B., & Joshi, P. V. (2012) [55] Nhiều nghiên cứu đã cố gắng giải thích một góc nhìn rộng hơn về DLNT,

chẳng hạn như khái niệm được UNWTO thiết lập (2001) trong Quy hoạch tổng thể du lịch nông thôn cho Malaysia, trong đó xác định các thành phần khác nhau của “nông thôn” Malaysia trong các mục tiêu du lịch. Nó bao gồm du lịch nông nghiệp, du lịch di sản, du lịch sinh thái, cũng như các sản phẩm văn hóa và lưu trú tại gia. Dựa trên các hình thức DLNT khác nhau trong tài liệu, điều quan trọng cần lưu ý là khái niệm DLNT theo quan điểm của Malaysia. Sự khác biệt chính trong khái niệm


DLNT trong các nghiên cứu trước đây là sản phẩm “lưu trú tại nhà”. Ở cùng với các gia đình bản xứ, hay cụ thể là các gia đình “a dopted-con nuôi”, đã trở thành thành phần chính trong việc lưu trú tại nhà của người Malaysia [127].

Người ta tin rằng không có quốc gia nào khác cung cấp loại hình hoạt động dựa trên nông thôn này, tức là cho phép khách du lịch ở lại và trực tiếp trải nghiệm các yếu tố văn hóa và truyền thống ở Malaysia. Sự phát triển của hình thức du lịch này một phần là do chính phủ có động thái áp dụng các phương thức phát triển thay thế hứa hẹn sử dụng tài nguyên bền vững và công bằng hơn [49].

Điều này chủ yếu liên quan đến các doanh nghiệp du lịch quy mô nhỏ, do địa phương sở hữu và điều hành với sự tham gia của người dân địa phương, phù hợp với đặc điểm của một doanh nghiệp DLNT [127].

Du lịch nông thôn

với cốt lõi:

Thông qua các cách tiếp cận trên ta nhận thấy DLNT có những loại hình khác nhau phụ thuộc vào điều kiện nguồn tài nguyên của khu vực nông thôn đó. Và dù là dựa vào nguồn tài nguyên đặc trưng nào thì DLNT trước hết vẫn phải mang đầy đủ đặc điểm của DLNT với cốt lõi thiên về những loại hình sau:


Du lịch

Du lịch

Du lịch

Du lịch

Du lịch

Du lịch

nông/

làng

cộng

Văn hóa/

sinh thái/

mạohiểm/

lâm/ ngư

nghề/

đồng

/ Di sản

Tự nhiên

giáo

nghiệp/

tâm




dục/tri

trang trại

linh/lễ




thức nông


hội




nghiệp/


truyền




sức khỏe/


thống




Thể thao

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 255 trang tài liệu này.

Phát triển du lịch nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng - 7

Hình 2.9. Các hình thức du lịch nông thôn

Nguồn: Tác giả luận án tổng hợp

2.1.1.3. Vai trò của du lịch nông thôn

Trong thập kỷ qua, DLNT đã trở thành một phần không thể thiếu ở một số quốc gia trên thế giới. Trên thực tế, các chính phủ cũng coi du lịch là cơ hội việc


làm mới trong một lĩnh vực đang phát triển tập trung vào các ngành dịch vụ và có thể hỗ trợ phát triển và hiện đại hóa nền kinh tế [74]. Ngành công nghiệp này cũng quan trọng vì nhiều lý do như tăng cường kinh tế tập thể nông thôn, làm đẹp cảnh quan nông thôn, giảm khoảng cách thành thị - nông thôn, xây dựng xã hội hài hòa, và tìm ra một phương thức phát triển DLNT mới [166]. Ngoài ra, Bramwell & Lane (2012) cho rằng DLNT gắn liền với các vấn đề về chất lượng cuộc sống vì nó mang lại cho mọi người cơ hội để thoát khỏi những phức tạp và căng thẳng của cuộc sống hàng ngày và công việc [58].

Trong ngành công nghiệp toàn cầu mới, cách duy nhất để khuyến khích phát triển nông thôn là khuyến khích DLNT vì sự phát triển của DLNT đã góp phần đáng kể vào việc bảo tồn di sản văn hóa địa phương và bản chất của môi trường [127]). Nếu sự phát triển của du lịch không được quy hoạch và quản lý hợp lý, nó có thể để lại những dấu vết lâu dài trên môi trường vật chất, xã hội, văn hóa và kinh tế. Lý do chính mà du khách chọn các điểm đến nông thôn là do mong muốn được tận hưởng chất lượng cuộc sống nông thôn ngoài cảnh quan của con người. Vì vậy, duy trì chất lượng môi trường là điều kiện thiết yếu để một khu vực được coi là hấp dẫn ([153], [154])

Địa điểm thích hợp cho các hoạt động du lịch là tốt nhất khi các thuộc tính giải trí chủ yếu được thể hiện bằng chính bầu không khí của chúng, vì các ngôi làng được đặc trưng bởi thiên nhiên được bảo tồn và những khu vực cây xanh rộng lớn [109]; [143], [144]. Những thay đổi đối với khu vực nông thôn gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của cả nền kinh tế địa phương và toàn cầu. Do đó, người ta tin rằng nghiên cứu về tiềm năng phát triển DLNT, đặc biệt là ở khu vực nông thôn, có thể góp phần vào sự bền vững của môi trường cũng như tạo ra thu nhập thay thế cho người dân nông thôn vì nhiều quốc gia tham gia vào ngành DLNT như một ngành ngành công nghiệp nghịch lý và trải qua những thay đổi nhanh chóng, đặc biệt là trong những chuyển đổi kinh tế xã hội [147].

Đặc biệt, DLNT có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng liên quan đến khách sạn, đồ ăn và thức uống, chỗ ở, hoạt động giải trí và các sự kiện bên cạnh việc bảo vệ môi trường. Thúc đẩy DLNT ở những vùng chưa phát triển, nơi môi trường tự nhiên chiếm ưu thế, nhằm phát triển bền vững địa phương, đảm bảo lợi ích kinh tế


và xã hội cho cộng đồng địa phương nhằm duy trì tài sản nông thôn (Devisme & Bargeau, 2009).

Gần đây cho thấy ngành du lịch đã nổi lên như một trong những phương tiện trung tâm để các khu vực nông thôn có thể điều chỉnh theo môi trường toàn cầu mới. Thật vậy, DLNT ngày càng thu hút sự chú ý của khách du lịch tiềm năng vì họ thấy được sự đền bù cho những gì họ đã mất ở thành thị [143], [144]. Đây có thể là một công cụ tài trợ cho việc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và tăng tác động kinh tế cho đất nước ([140], [142]). Quan trọng hơn, tiềm năng của DLNT có thể mang lại lợi ích cho việc bảo vệ và bảo tồn môi trường thông qua việc nâng cao nhận thức về các giá trị môi trường trong cộng đồng địa phương. Tương tự, Hall, Kirkpatrick và Mitchell (2005) cho rằng nhận thức hạn chế về du lịch có thể góp phần tạo ra những kỳ vọng sai lầm về lợi ích của du lịch [84].

Một trong những cuộc thảo luận quan trọng nhất hiện nay trong các nghiên cứu về nông thôn là mục tiêu thúc đẩy DLNT nhằm tăng lợi ích ròng cho người dân nông thôn bằng cách tăng cường sự tham gia của họ vào việc quản lý các sản phẩm du lịch. Nếu có thể phát triển nhiều du lịch hơn ở các vùng nông thôn, đặc biệt là theo những cách mà địa phương có sự tham gia cao của địa phương vào các quyết định và doanh nghiệp, thì tác động nghèo đói có thể sẽ được tăng cường [166]. Việc thực hiện phát triển du lịch và DLNT có thể khác nhau giữa các điểm du lịch về trọng tâm và tốc độ thực hiện. Đã có những đề xuất sử dụng cách tiếp cận tổng hợp trong quy hoạch và phát triển du lịch để bảo tồn các tài sản văn hóa và thiên nhiên hiện có [143].

Trong những thập kỷ gần đây, DLNT không chỉ trở thành một nguồn thu nhập bổ sung đáng kể, chủ yếu cho người dân nông thôn, mà còn là một cơ chế quan trọng cho sự cân bằng mới và mối quan hệ năng động giữa các trung tâm đô thị và các địa phương nội địa [58]. Mối quan hệ năng động này sẽ cho phép mở rộng hoạt động du lịch tài chính và xã hội theo thời gian và không gian [141]. Như đã thảo luận trước đây, DLNT liên quan đến các hoạt động du lịch quy mô nhỏ, tổ chức kiểu gia đình hoặc hợp tác xã, được phát triển ở các vùng nông thôn bởi những người làm nông nghiệp. Mục đích cơ bản của nó là cung cấp cho những người nông dân sống dựa vào tự cung tự cấp các giải pháp thay thế cho nghề nghiệp của họ và


cũng để cải thiện thu nhập và chất lượng cuộc sống của họ ([107],[108]). Các cơ hội mà ngành du lịch mang lại trên toàn cầu là không thể nghi ngờ và mọi quốc gia đều tìm cách kích thích tăng trưởng kinh tế bền vững dựa trên các cơ hội việc làm [120].

Đã có một số nghiên cứu trong các tài liệu báo cáo vai trò của ngành du lịch như một nguồn tạo ra việc làm và doanh thu; do đó, nó đã được xác định là một lĩnh vực chiến lược và có khả năng lồng ghép chiến lược xây dựng thương hiệu vùng rộng lớn hơn vì nó có khả năng làm nổi bật tiềm năng du lịch để củng cố vị thế của vùng và đất nước.

DLNT góp phần kéo dài mùa vụ du lịch trong thời gian thấp điểm của các loại hình du lịch khác cũng như tính mùa vụ trong nông nghiệp và sản xuất.

DLNT là một trong những phương thức hiện đại hiệu quả giúp tăng trưởng và phát triển nông thôn [67].

DLNT được coi là một phản ứng của toàn cầu hóa [68], do đó DLNT có lợi cho cả những người sống ở thành thị, những người tìm kiếm sự nghỉ ngơi và thư giãn, và những người sống ở nông thôn, như một phương tiện kiếm tiền.

DLNT cũng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng dịch vụ; tiêu thụ tại chỗ các sản phẩm nông nghiệp; góp phần xóa đói giảm nghèo cho nông dân, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới.

DLNT góp phần tạo việc làm cho người lao động địa phương, đặc biệt là phụ nữ và người lớn tuổi ở địa phương; hạn chế khuynh hướng ly hương ở người trẻ.

DLNT như một giải pháp thay thế phát triển bền vững. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện nhằm nâng cao nhu cầu DLNT cũng như cải thiện cách tiếp cận quy hoạch, quản lý và PTDLNT. Tuy nhiên, cho đến nay, các nỗ lực vẫn chưa đủ và vẫn còn những vấn đề đáng lo ngại không phản ánh các hoạt động DLNT bền vững được chấp nhận ([62]; [135]). Sự phát triển của DLNT được coi là một công cụ để cải thiện khả năng tiếp cận đến các vùng sâu vùng xa, nơi nó mang lại nhiều cơ hội hơn giữa khách du lịch và cộng đồng địa phương cũng như vai trò của người tiêu dùng và nhà cung cấp dịch vụ (Mathew, 2005). Nó cần được đánh giá cao về tính bền vững và các nhà hoạch định phải nhận thức được sự cần thiết của việc bảo tồn các môi trường mong manh và hỗ trợ bảo tồn (UNWTO, 2001).

Xem tất cả 255 trang.

Ngày đăng: 10/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí