Bảo Đảm Duy Trì Tính Bền Vững Và Hiệu Quả Trong Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh Và Dịch Vụ Của Bản Thân Kcn


công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, Chiến lược phát triển KTXH 10 năm (2001 - 2010), Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm (2001 - 2005) đã xác định mục tiêu: “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và BVMT". Đặc biệt, lần đầu tiên vấn đề PTBV đã được đưa thành chủ đề của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ X cũng đã nhấn mạnh "việc đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế" và "nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển"[62].

Để cụ thể hoá đường lối và quan điểm của Đảng về BVMT và PTBV, Quốc hội đã thông qua Luật BVMT (sửa đổi); Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Định hướng chiến lược PTBV ở Việt Nam (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam), Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo. Trong Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm (2006 - 2010) Việt Nam đã đưa ra ba nhóm chỉ tiêu về kinh tế, về xã hội và về môi trường, phản ánh đầy đủ ba mặt của PTBV. Từ năm 2007, Chính phủ cũng đã quyết định dành tối thiểu 1% tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường. Trong mục lục thống kê hàng năm, ngoài các lĩnh vực KTXH, hiện nay đã bổ sung thêm bộ các chỉ số về môi trường. 19 nhóm lĩnh vực cần ưu tiên nhằm PTBV được đặt ra trong Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam, có 5 nhóm lĩnh vực kinh tế, 5 nhóm lĩnh vực xã hội và có tới 9 nhóm lĩnh vực tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Những chính sách, pháp luật nêu trên là những tiền đề quan trọng, là kim chỉ nam để thực hiện PTBV nước ta trong những thập kỷ đầu của thế kỷ 21.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về PTBV đã được kết tinh và phản ánh đầy đủ nhất trong Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam: “Mục tiêu tổng quát của PTBV là đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về tinh thần và văn hoá, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và BVMT”.

1.3. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CÁC KHU CÔNG NGHIỆP VÀ CÁC TIÊU


CHÍ ĐÁNH GIÁ

1.3.1. Quan niệm về PTBV các KCN

Phát triển bền vững là một nhu cầu cấp bách và là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển KTXH của đất nước. Ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu PTBV đất nước như Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra và các cam kết quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược PTBV”. Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân triển khai thực hiện và phối hợp hành động. Mục tiêu bảo đảm PTBV đất nước trong thế kỷ 21 chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở thực hiện chiến lược PTBV trong từng ngành, từng lĩnh vực, từng địa phương, trong đó có PTBV các KCN [51].

Phát triển bền vững các KCN được đặt ra trong khuôn khổ quan niệm về PTBV đất nước có chú ý đến những yếu tố đặc thù của các KCN. Theo cách hiểu như vậy, PTBV KCN là việc bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế ổn định, có hiệu quả ngày càng cao trong bản thân KCN, phát triển hài hòa với các mặt xã hội và BVMT. Như vậy, PTBV KCN phải được xem xét trên hai góc độ:

1.3.1.1. Bảo đảm duy trì tính bền vững và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ của bản thân KCN

- Bảo đảm sự phát triển ổn định các chỉ số hiệu quả kinh tế cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN như: quy mô và tốc độ tăng giá trị sản lượng, tổng kim ngạch xuất khẩu, NSLĐ, trình độ công nghệ, thu nhập bình quân và các đóng góp với nhà nước và địa phương.

- Duy trì và nâng cao khả năng cạnh tranh của các KCN. Khả năng cạnh tranh nói lên tính chất vượt trội trong quan hệ so sánh với các đối thủ cạnh tranh khác có cùng tiêu chí so sánh. Đối thủ cạnh tranh của các KCN vùng KTTĐBB là các KCN ở các vùng khác cũng như trong khu vực Châu Á nói chung. Năng lực cạnh tranh của KCN thể hiện ở sự vượt trội trong các tiêu chí cơ bản: môi trường pháp lý và hành chính; cơ sở hạ tầng, chi phí sản xuất, trình độ công nghệ sản xuất, khả năng


chiếm lĩnh thị trường; bảo đảm nguồn nhân lực cả về số và chất lượng.

Để bảo đảm duy trì tính hiệu quả trong các KCN cần phải luôn đặt sự phát triển các KCN vùng KTTĐBB với quá trình phát triển kinh tế của Vùng nói chung và phát triển các KCN trong nước cũng như trên thế giới. Phải dự báo được sự phát triển kinh tế, phát triển công nghệ, phát triển các KCN trong nước và trên thế giới để có sự điều chỉnh tiêu chí đánh giá hiệu quả và năng lực phản ánh tính bền vững của KCN vùng KTTĐBB.

1.3.1.2. Tác động lan toả tích cực của KCN đến các hoạt động KTXH của các ngành, địa phương, khu vực có KCN.

Tác động lan toả của KCN cần đảm bảo việc không gây mất bền vững đối với sự phát triển của các ngành, lãnh thổ ngoài ranh giới của KCN. Điều này thể hiện trên các tiêu chí cụ thể:

- Hoạt động của KCN tạo sự chuyển dịch tích cực trong cơ cấu ngành kinh tế địa phương theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hướng về xuất khẩu.

- Hoạt động của KCN có tác động tích cực trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật và xã hội cho khu vực có KCN.

- Hoạt động của KCN có tác động tích cực trong việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân địa phương thông qua việc giảm thiểu các ảnh hưởng tiêu cực đến các vấn đề xã hội, giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập cho người lao động.

- Sự phát triển các KCN phải đảm bảo hạn chế ô nhiễm và cải thiện môi trường sinh thái.

1.3.2. Các tiêu chí đánh giá PTBV về kinh tế của các KCN

Việc xác định các tiêu chí cụ thể đo lường sự PTBV của KCN có vai trò quyết định trong việc đánh giá tác động của các chính sách đối với KCN. Căn cứ vào quan niệm về PTBV KCN, các tiêu chí đánh giá PTBV về kinh tế các KCN được chia làm 2 nhóm: (1) đánh giá sự bền vững nội tại các KCN và (2) đánh giá ảnh hưởng lan toả của các KCN đến địa phương có KCN. Các tiêu chí này đều


nhằm hướng đến mục tiêu đảm bảo hiệu quả kinh tế cho 3 nhóm chủ thể là: (i) Nhà nước, địa phương có KCN; (ii) doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp hoạt động trong KCN và (iii) người lao động.

1.3.2.1. Tiêu chí đánh giá PTBV kinh tế nội tại KCN

Phát triển bền vững nội tại KCN là yêu cầu quan trọng nhất, vì nó đảm bảo duy trì sự hoạt động “khỏe mạnh” của các KCN này. Đây là cơ sở tạo lan toả tích cực đối với địa phương nơi có KCN và toàn nền kinh tế. Có thể rút ra tiêu chí đánh giá PTBV nội tại KCN, bao gồm:

(1) Vị trí đặt của KCN:

Tiêu chí này một mặt phản ánh chất lượng qui hoạch KCN. Vị trí KCN là thước đo quan trọng đánh giá tính bền vững KCN từ giai đoạn qui hoạch, xây dựng và vận hành, nó cho thấy tính hợp lý, đồng bộ, khoa học và hiệu quả của KCN. Các tiêu chí cụ thể bao gồm: (i) Sự bố trí khoa học các KCN trong phạm vi không gian Vùng (đây là điều kiện thúc đẩy tăng cường sự liên kết giữa các KCN); (ii) Bố trí vị trí KCN trong không gian địa phương: vị trí so với khu dân cư; so với vị trí đường giao thông; và (iii) Nguồn gốc đất đai cho phát triển KCN nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế, bảo vệ và cải thiện môi trường và thu hút lao động.

Mặt khác, đây là dấu hiệu dẫn đến sự thành công của KCN. Các tiêu chí cụ thể là: KCN đặt ở vị trí thuận lợi hay khó khăn về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như đường xá, bến cảng, nhà ga, sân bay, hệ thống viễn thông; chất lượng các dịch vụ xã hội của địa phương... Ngoài ra, khi xét đến vị trí của KCN cũng cần xem xét đến yếu tố tác động kinh tế - xã hội và môi trường mà KCN có thể mang lại. Tất cả những dấu hiệu này phải cần được xem xét cả ở hiện tại và khả năng duy trì nó trong tương lai lâu dài của KCN.

(2) Quy mô diện tích KCN: Qui mô diện tích tự nhiên KCN phù hợp được đánh giá dựa trên tính hợp lý của quy mô so với mục đích và tính chất hoạt động của KCN. Việc đánh giá này này dựa trên hai khía cạnh:

- Một là, theo đánh giá của nhiều chuyên gia thì quy mô của KCN sẽ phụ thuộc


vào mục đích hình thành KCN: Với mục tiêu hình thành KCN để thu hút vốn ĐTNN thì quy mô có hiệu quả nằm trong khoảng 200 - 300 ha (đối với các KCN nằm trong khu vực thành thị và vùng KTTĐ), còn 300 - 500 ha đối với KCN nằm trên các tỉnh; Với mục tiêu di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn thì KCN có quy mô nhỏ hơn 100 ha; với mục tiêu tận dụng nguồn lao động và thế mạnh tại chỗ của các địa phương thì quy mô KCN phù hợp là từ 100 ha…

- Hai là, tính chất và điều kiện hoạt động của KCN: nếu KCN được đặt ở địa phương có cảng biển và nguồn nguyên liệu lớn hình thành với tính chất chuyên môn hoá sản xuất ổn định một số sản phẩm hàng hoá công nghiệp nặng thì quy mô KCN phù hợp là từ 300-500 ha; với các KCN nằm ở xa đô thị, cảng biển, với tính chất hoạt động là tận dụng lao động thì có quy mô hợp lý là từ 50 - 100 ha.

(3) Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê trong diện tích đất tự nhiên KCN. Tiêu chí này có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất trong KCN và là cơ sở cho sự PTBV KCN; nó thể hiện mật độ của các doanh nghiệp sản xuất trong KCN. Nếu tỷ lệ này quá thấp sẽ gây lãng phí về mặt bằng, việc khai thác kém hiệu quả; còn nếu tỷ lệ này quá cao thì phần diện tích dành cho giao thông, sân chơi, cây xanh và môi trường… sẽ thấp gây ảnh hưởng đến khả năng hoạt động cũng như môi trường thông thoáng trong KCN. Tỷ lệ này nên vào khoảng 60% - 70% thì hợp lý.

Theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD ngày 3 tháng 4 năm 2008 của Bộ Xây dựng về việc ban hành “Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về Quy hoạch xây dựng”, tại mục 2.7, chương II nêu rõ: Quy hoạch sử dụng đất trong KCN – TTCN cần đảm bảo các yêu cầu về chức năng hoạt động của KCN. Tỷ lệ các loại đất trong KCN phụ thuộc vào vị trí của KCN, mô đun diện tích của các lô đất xây dựng nhà máy, kho tàng, nhưng cần phù hợp với các yêu cầu:

Bảng 1.1: Tỷ lệ các loại đất trong khu công nghiệp

(Theo Quyết định số 04/2008/QĐ-BXD)


STT

Loi đt

Tl




(% din tích toàn khu)

1

Nhà máy, kho tàng

55

2

Các khu kthut

1

3

Công trình hành chính, dch v

1

4

Giao thông

8

5

Cây xanh

10

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 249 trang tài liệu này.

Phát triển các khu công nghiệp vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ theo hướng bền vững - 6

Tiêu chí này được qui định nhằm bảo đảm cho việc PTBV của KCN. Trên thực tế, các nhà đầu tư CSHT KCN thường có xu hướng nâng tỷ lệ đất công nghiệp (đất có thể cho thuê) trong diện tích tự nhiên KCN, qua đó tăng được diện tích đất cho thuê và thu nhập. Do vậy, chỉ cần căn cứ vào chỉ tiêu này có thể đánh giá được việc ưu tiên cho các mục đích khác.

Tỷ lệ diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê trên diện tích đất tự nhiên (TLCN, %) được xác định bằng công thức:

S

TL

S CN

100 %


(1.1)


Trong đó:

CN

TN


+ SCN: Diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê của KCN.

+ Diện tích đất tự nhiên (STN) là toàn bộ diện tích của phần đất bên trong hàng rào KCN, bao gồm cả diện tích đất công nghiệp và diện tích các kết cấu hạ tầng khác như văn phòng đại diện quản lý KCN, hệ thống đường xá trong KCN, hệ thống xử lý chất thải, vườn cây trong KCN, văn phòng giới thiệu sản phẩm…

(4) Tỷ lệ lấp đầy KCN: chỉ số này được đo bằng tỷ lệ giữa diện tích đất KCN đã cho các doanh nghiệp sản xuất và dịch vụ thuê và tổng diện tích đất có khả năng cho thuê của KCN. Chỉ số này cho phép đánh giá mức độ thành công về thu hút đầu tư của KCN và so sánh giữa KCN với các KCN khác trong việc khai thác, sử dụng đất đai. Một KCN có tỷ lệ diện tích được lấp đầy là 100% là KCN đã khai thác triệt để phần diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, không còn phần diện tích đất trống.


Tất nhiên tỷ lệ lấp đầy không thể đạt cao ngay từ đầu mà nó phải được đánh giá theo từng giai đoạn. Giai đoạn đầu là thời kỳ xây dựng kết cấu hạ tầng kéo dài khoảng 3-4 năm, tiếp sau đó là giai đoạn thu hút đầu tư và hoàn thiện thủ tục với mục tiêu là thu hút nhanh chóng các nhà đầu tư vào KCN để “làm sống” KCN, thu hồi chi phí xây dựng, tạo lập việc làm cho người lao động. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy thời gian để thu hồi kinh phí đầu tư xây dựng có thể kéo dài khoảng 15-20 năm, vì vậy nếu sau 10-15 năm mà “tỷ lệ khoảng trống” trong KCN vẫn còn cao thì coi như KCN này không có hiệu quả và mục tiêu PTBV KCN này là không đảm bảo.

Tỷ lệ lấp đầy (%)

S đã cho thuê SCN

x 100 %


(1.2.)

(5) Sự gia tăng ổn định về mặt sản lượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN: Đây là tiêu chí quan trọng nhất đánh giá tính ổn định lâu dài về kinh tế đảm bảo hoạt động sản xuất của KCN. Đo lường tiêu chí này có thể dựa trên các chỉ số cụ thể về qui mô và tốc độ tăng trưởng các chỉ số đầu ra: (i) Qui mô, tốc độ tăng trưởng về GTSX, (ii) giá trị gia tăng và (iii) đóng góp với ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN.

(6) Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong KCN: Có nhiều chỉ số để đánh giá tiêu chí này như: Tổng số lao động thu hút; tổng vốn kinh doanh; tỷ lệ giá trị gia tăng so với tổng doanh thu... nhưng nổi bật lên trên hết là hai chỉ số có thể thu thập và xác định khá dễ dàng là: (i) Doanh thu trên một đơn vị lao động (Năng suất lao động) và (ii) Doanh thu trên một đơn vị diện tích. Việc đánh giá các chỉ số này phải dựa trên quan điểm “động”, tức là mức và tốc độ tăng trưởng của các con số đó. Điều đó cho phép kết luận về khả năng duy trì tính bền bỉ trong hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp.

(7) Trình độ công nghệ của doanh nghiệp và các hoạt động triển khai khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Tiêu chí này phản ánh khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong KCN, giữa KCN với các KCN khác trong nước và quốc


tế. Tiêu chí này thể hiện bằng các chỉ số: (i) cơ cấu trình độ công nghệ của máy móc thiết bị sử dụng trong KCN theo tỷ lệ vốn sản xuất trên 1 lao động và tỷ lệ vốn đầu tư trên một dự án; Quốc gia đầu tư, tính chất công nghệ; (ii) Tỷ lệ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai trong tổng vốn đầu tư của các doanh nghiệp, tỷ lệ doanh thu từ hoạt động nghiên cứu và triển khai so với tổng quy mô hoạt động của doanh nghiệp và của toàn KCN.

(8) Hoạt động liên kết sản xuất của các doanh nghiệp trong KCN: Đây cũng là tiêu chí phản ánh tính hiệu quả trong hoạt động của toàn KCN, tính chất tiên tiến trong tổ chức sản xuất và sự phù hợp với xu thế phát triển của phân công lao động xã hội theo hướng hiện đại. Tiêu chí này thể hiện trên các khía cạnh: (i) Tính chất chuyên ngành của KCN hay số ngành kinh tế trong KCN; (ii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết sản xuất với nhau trong tổng số doanh nghiệp nằm trong KCN; (iii) Tỷ lệ số doanh nghiệp có liên kết sản xuất với doanh nghiệp trong KCN khác và các doanh nghiệp khác bên ngoài KCN.

(9) Các tiêu chí phản ánh độ thỏa mãn các nhu cầu nhà đầu tư. Nhóm tiêu chí này phản ánh sức hấp dẫn của các KCN đối với các nhà đầu tư cả trong giai đoạn thu hút đầu tư và quá trình hoạt động của doanh nghiệp trong KCN. Nó bao gồm một nhóm các yếu tố phản ánh mức độ tiện lợi của hệ thống dịch vụ trong KCN tạo điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư. Cụ thể là: (i) Mức độ bảo đảm của hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật của KCN: Hệ thống cung ứng điện, nước, hệ thống hạ tầng trong, ngoài KCN: đường xá, kho bãi… (ii) Năng lực các ngành công nghiệp hỗ trợ, chất lượng hoạt động các ngành logistics phục vụ hoạt động cho các doanh nghiệp trong KCN như: bưu chính, thông tin, tài chính, ngân hàng,... (iii) Các chỉ số về nguồn nhân lực với tư cách là nguồn lực đầu vào cho hoạt động của KCN, bao gồm khả năng tuyển dụng lao động hay tính sẵn có về số và chất lượng lao động địa phương khi doanh nghiệp cần tuyển dụng và giá nhân công của Vùng so với các vùng khác trong cả nước và nước ngoài.

1.3.2.2. Tiêu chí đánh giá PTBV về kinh tế của vùng có KCN

Các tiêu chí này phản ánh tác động lan tỏa của KCN đến các hoạt động kinh

Xem tất cả 249 trang.

Ngày đăng: 24/10/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí