thị trường cho sản phẩm, lập dự án riêng cho từng làng nghề, tạo sự phối hợp, gắn kết chặt chẽ giữa các làng nghề trong các địa phương; (3) Chú trọng đến công tác vệ sinh môi trường ở các làng nghề; xây dựng kế hoạch, nội dung chương trình đào tạo đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp và (4) Tăng cường hợp tác liên ngành, liên vùng để phát triển du lịch bền vững.
Trần Thị Hồng Hạnh, “Một số đề xuất đối với vấn đề nghiên cứu chính sách du lịch ở Việt Nam hiện nay” [13]. Bài viết đã tập trung vào các giải pháp về chính sách du lịch, như: (1) Các bên liên quan đến việc hoạch định và thực hiện chính sách du lịch cần đánh giá đúng tầm quan trọng của ngành du lịch; (2) Cần tiếp tục đầu tư cho vấn đề nghiên cứu học thuật liên quan đến việc thúc đẩy du lịch và phát triển du lịch bền vững, hiện đại cùng với sự thay đổi của tình hình xã hội; (3) Xây dựng chính sách hỗ trợ các chuyên gia, học giả, nhà hoạch định chính sách du lịch để tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình xây dựng đánh giá chính sách và
(4) Thực hiện các dự báo về biến động xã hội cũng như có biện pháp nhằm khắc phục mặt tiêu cực do du lịch để lại.
1.3.2. Các công trình nghiên cứu ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào
Keo Chănthavixay, “Sự di cư tự do của lực lượng lao động, ảnh hưởng và thử thách khi gia nhập AEC” [131]. Bài viết đã làm rõ một số giải pháp có liên quan trực tiếp đến vấn đề tập hợp, huy động và phát triển tốt nhất nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước, trong đó nhấn mạnh một số vấn đề như: (1) Coi trọng việc tăng cường phát triển lực lượng lao động trẻ đảm bảo có đầy đủ các yếu tố về tri thức, năng lực, tay nghề và kỷ luật trong lao động;
(2) Khuyến khích các loại hình kinh tế phát triển đa dạng để qua đó tạo việc làm cũng như gián tiếp đáp ứng đòi hỏi, yêu cầu của thị trường lao động; (3) Các cơ quan nhà nước cần nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn lực lao động trong cả nước để qua đó, giúp bảo vệ lợi ích cho cả các chủ thể, pháp nhân sử dụng lao động và đặc biệt bảo vệ là chính người lao động; (4) Xây dựng hệ thống các trường đào tạo nguồn lực lao động cũng như chú trọng tới công tác thông tin tuyên truyền định hướng nghề nghiệp cho người lao động trẻ tuổi; (5) Nâng cao hiệu quả quan hệ hợp tác với nước ngoài, như tranh thủ vốn đầu tư và kỹ thuật để nâng cao trình độ cho người lao động.
Phutsady Phanyasith, “Pháp luật về du lịch và việc thực hiện pháp luật về du lịch ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [134]. Bài viết đã làm rõ một số giải pháp
nhằm điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ du lịch trên các khía cạnh đó là: (1) Tạo hành lang pháp lý cho xây dựng, phát triển kinh tế du lịch và hoạt động du lịch; xác lập các chuẩn mực, các cơ sở pháp lý điều chỉnh trực tiếp hành vi của cơ quan trong và ngoài nước hoạt động trong lĩnh vực du lịch theo một trật tự nhất định; (2) Tiến hành khảo sát đánh giá thực hiện pháp luật về du lịch ở nước CHDCND Lào, nhất là tập trung vào việc làm rõ pháp luật đã đi vào cuộc sống hay chưa, vai trò của pháp luật trong công tác quản lý du lịch; việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về quản lý, phát triển du lịch theo hướng đa dạng hóa các thành phần kinh tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay - 2
- Các Công Trình Nghiên Cứu Ở Nước Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Các Công Trình Nghiên Cứu Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Quan Niệm Về Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Và Nội Dung Phát Huy Nhân Tố Con Người Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Vai Trò Của Phát Huy Nhân Tố Con Người Trong Phát Triển Kinh Tế Du Lịch Ở Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào
- Nhân Tố Con Người Là Chủ Thể Phát Triển Kinh Tế Du Lịch
Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.
Sysomphone Vongphachanh, “Phát huy nhân tố con người ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” [36]. Tác giả đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy nhân tố con người đáp ứng yêu cầu hiện nay, cụ thể là: (1) Nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình gia tăng chất lượng, sản lượng trong quá trình làm việc; (2) Nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức chính trị, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Kaysone Phomvihane và quan điểm của Đảng NDCM Lào về nhân tố con người; (3) Giáo dục tinh thần yêu nước, nâng cao ý thức tự lực tự cường của dân tộc, trách nhiệm của công dân gắn liền với việc giảm dần sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ và (4) Tập trung đổi mới công tác giáo dục, đào tạo và đẩy mạnh cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng chống lại các khuynh hướng trái chiều.
Sysomphone Vongphachanh, “Phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào hiện nay” [38]. Luận án đã đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế xã hội ở CHDCND Lào trong thời gian tới, như: (1) Nhóm giải pháp về tăng cường sử dụng hợp lý, hiệu quả nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội nhất là đối với nguồn nhân lực có trình độ và năng lực trong những ngành trọng điểm của nước CHDCND Lào; (2) Nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng con người nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới và (3) Nhóm giải pháp về gia tăng động lực, tích chủ động của mỗi chủ thể nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế - xã hội.
1.4. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ TỔNG QUAN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.4.1. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan
Có thể nói rằng trong nhiều năm gần đây vấn đề nhân tố con người và phát huy nhân tố con người đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều
nước và vùng lãnh thổ khác nhau, được đăng tải trên các sách, báo, tạp chí; đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều giác độ khác nhau có liên quan gián tiếp, hoặc trực tiếp đến nội dung của luận án. Trong đó, các công trình nghiên cứu đã cung cấp những thông tin dưới nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau, như:
Thứ nhất, các công trình đã tổng quan đã làm rõ các vấn đề lý luận về nhân tố con người, đó là phân tích các quan điểm, khái niệm, tầm quan trọng đòi hỏi cần phải chú trọng tới việc phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp đổi mới ở nước CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay, xem nhân tố con người như một động lực quan trọng đóng góp vào việc thúc đẩy quá trình phát triển các lĩnh vực của đời sống xã hội và phải có tầm nhìn chiến lược hơn để phát huy yếu tố con người đáp ứng quá trình CNH, HĐH đất nước, phân tích nội dung cũng như làm rõ những nhân tố ảnh hưởng đến nhân tố con người thể hiện qua lợi ích vật chất và tinh thần, nhu cầu của mỗi cá nhân.
Thứ hai, các công trình được tổng quan đã góp phần làm rõ những ưu điểm về thực trạng phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, như đã chú trọng tới phát huy nhân tố con người thông qua các chính sách về giáo dục đào tạo nghề, chính sách việc làm, coi trọng đào tạo về trình độ chuyên môn cùng với các kỹ năng mềm khác, người lao động cũng đã nhận thức rõ hơn về yêu cầu cần phát huy khả năng của bản thân để đóng góp vào quá trình phát triển. Đồng thời, các công trình này cũng đã làm rõ những hạn chế hiện nay đối với nguồn nhân lực trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế, như: vẫn còn khá nhiều người lao động có trình độ tay nghề thấp, còn chưa chịu khó phấn đấu trong lao động và học tập tiếp thu kiến thức mới.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu mà tác giả đã tổng quan đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu để tiếp tục nâng cao chất lượng hiệu quả phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế trên những phương diện nhất định. Trong những công trình này, các tác giả đã nhấn mạnh đến một số giải pháp tiêu biểu, như: phát triển giáo dục - đào tạo, tập trung nâng cao vị thế của người lao động trong quá trình sản xuất; nâng cao trình độ của cán bộ, đảng viên và nhân dân về nhận thức đối với phát huy nhân tố con người, chú trọng, quan hệ hợp tác với nước ngoài cũng như tranh thủ vốn đầu tư và kỹ thuật để nâng cao trình độ cho người lao động, nâng cao trách nhiệm trong việc quản lý, thanh tra, kiểm tra việc sử dụng nguồn lực lao động trong cả nước.
Có thể nói rằng, các công trình trên đã có những đóng góp nhất định đối với các nội dung liên quan đến nhân tố con người. Tuy nhiên, nghiên cứu có tính hệ
thống dưới góc độ triết học vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở CHDCND Lào thì cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào trực tiếp đề cập đến, nhất là trong điều kiện toàn cầu hóa, hội nhập khu vực và quốc tế ở nước CHDCND Lào giai đoạn hiện nay.
1.4.2. Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Tuy những công trình đã tổng quan có nhiều giá trị tham khảo về mặt lý luận cũng như thực tiễn, nhưng qua việc tổng quan các công trình này, đề tài nhận thấy cần tiếp tục tập trung nghiên cứu một số nội dung hiện vẫn chưa được đề cập nhiều đó là:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay qua việc làm rõ quan niệm và nội dung phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào; vai trò của nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào và các nhân tố tác động đến việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào.
Hai là, phân tích thực trạng và nguyên nhân phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay, qua việc làm rõ các thông tin khái quát chung về phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay, phân tích một số thành tựu cơ bản về phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay và nguyên nhân của nó; chỉ rõ một số hạn chế về phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay và nguyên nhân của các hạn chế.
Ba là, đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào trong thời gian tới, như nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức của hệ thống chính trị và toàn xã hội về phát huy hiệu quả nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay, nhóm giải pháp về nâng cao hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay, nhóm giải pháp về tạo môi trường gia tăng động lực nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch, nhóm giải pháp về sử dụng hiệu quả, hợp lý nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch và nhóm giải pháp về nâng cao ý thức tự rèn luyện, học tập, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch.
Tiểu kết chương 1
Chương 1 của luận án đã làm rõ các nội dung liên quan đến vấn đề tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, trong đó tác giả đã tìm kiếm, tổng quan cũng như làm rõ bốn nội dung chính thông qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người, các công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch, các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch.
Đồng thời qua việc tổng quan các công trình đã nghiên cứu về các khía cạnh có liên quan đến đề tài, tác giả cũng đã đánh giá những giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, như việc làm rõ một số vấn đề lý luận về phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay, phân tích thực trạng và nguyên nhân phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào hiện nay và đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch ở nước CHDCND Lào trong thời gian tới.
Những công trình đã được tổng quan cũng như các nội dung đã được làm rõ tại chương này sẽ giúp cho tác giả có kiến thức chung về vấn đề phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế du lịch cũng như những định hướng, cơ sở để tác giả tiếp tục thực hiện những nội dung tiếp theo của luận án trong chương hai, chương ba và chương bốn.
Chương 2
PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
2.1. QUAN NIỆM VỀ NHÂN TỐ CON NGƯỜI, PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI VÀ NỘI DUNG PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH Ở CỘNG HOÀ DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
2.1.1. Quan niệm về nhân tố con người và phát huy nhân tố con người
2.1.1.1. Quan niệm về nhân tố con người
Thứ nhất, quan niệm ngoài mác xít về nhân tố con người
Triết học Trung Hoa tiêu biểu là trường phái Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ góc độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ góc độ khác và đi tới kết luận về bản tính Tự Nhiên của con người. Sự khác nhau về góc độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã trở thành tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Trong Triết học Ấn Độ, mà tiêu biểu là Phật giáo lại tiếp cận từ góc độ khác, góc độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với những vấn đề nhân sinh quan. Kết lụân về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác Ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Phật giáo. Trong khi đó, các nhà triết học theo lập trường triết học duy vật ở Phương Tây đã đứng trên góc độ khoa học tự nhiên để lý giải về bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan.
Vào thời kỳ Cổ đại, các nhà triết học duy vật đã đưa ra quan niệm về bản chất tự nhiên của nhân tố con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo từ vật chất. Tiêu biểu là thuyết nguyên tử của của Đêmôcrit, coi con người gồm thể xác và linh hồn, chúng được cấu tạo bởi những nguyên tử khác nhau. Sau đó, những quan niệm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các
nhà duy vật Anh và Pháp thế kỷ XVIII; Đây cũng là một trong những tiền đề lý luận cho sự hình thành chủ nghĩa duy vật nhân bản của Phoiơbắc. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Mác.
Đối lập với các nhà triết học duy vật, các nhà triết học duy tâm trong lịch sử triết học phương Tây lại tuyệt đối hoá góc độ hoạt động lý tính của con người. Tiêu biểu cho giác độ tiếp cận này là quan điểm của Platôn thời Cổ đại Hy Lạp, Đêcáctơ trong nền triết học Pháp thời Cận đại và Hêghen trong nền triết học Cổ điển Đức. Do không đứng trên lập trường duy vật, các nhà triết học này đã lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. Với Platôn, đó là bản chất bất tử của linh hồn thuộc thế giới ý niệm; với Đêcáctơ, đó là bản tính phi kinh nghiệm (apriori) của lý tính, còn đối với Hêghen, thì đó chính là bản chất lý tính tuyệt đối. Họ khẳng định rằng, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất con người. Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới loài vật là phương diện xã hội của nó.
Trong Triết học phương Tây hiện đại, nhiều trào lưu triết học coi triết học về con người là vấn đề trung tâm của những suy tư triết học mà tiêu biểu là chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa Phơrớt. Nhìn chung, các quan điểm triết học trước Mác có hạn chế cơ bản là mang tính phiến diện trong phương pháp tiếp cận, lý giải các vấn đề triết học về con người, xem bản chất con người là cái vốn có từ khi sinh ra, là cái bất biến; Đồng nhất bản chất con người với đạo đức, với hoạt động chính trị, với lao động sáng tạo; hay đồng nhất bản chất con người với những bản năng sinh vật vốn có như “tính thiện”, “tính ác”,... . Như vậy, trong thực tế lịch sử loài người đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người.
Nhìn chung, chúng ta có thể thấy rằng các nhà triết học trước Mác đã có những đóng góp nhất định trong quá trình nghiên cứu các khía cạnh về nhân tố con người đặc biệt trong vấn đề làm rõ, đánh giá vị trí, vai trò của con người trong xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta có thể nhận thấy rằng, những quan niệm này xuất phát từ con người chung chung, nhân bản, do vậy đã làm cho các quan niệm về triết học trước Mác rơi vào lập trường duy tâm, thần bí và siêu hình.
Thứ hai, quan niệm mác xít về nhân tố con người
Lịch sử phát triển xã hội đã chứng minh rằng, trong mọi giai đoạn, con người là yếu tố đóng vai trò quyết định sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của xã hội. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã hoàn toàn đúng khi khẳng định rằng, sự phát triển của xã hội không phải do bất kỳ một lực lượng siêu nhiên nào, mà chính con người đã sáng tạo nên lịch sử của mình - lịch sử xã hội loài người. Với sự ra đời của triết học Mác, vấn đề con người đã được nhìn nhận, đánh giá và lý giải một cách sâu sắc, khoa học và toàn diện. Đặc biệt, triết học Mác đã có những phân tích hết sức đúng đắn và khoa học về vị trí, vai trò của nhân tố con người đối với sự phát triển xã hội. Vai trò quan trọng không thể thay thế của nhân tố con người trong tiến trình phát triển lịch sử thể hiện tập trung trên một số điểm cơ bản sau:
"Bằng hoạt động cải biến tự nhiên theo nhu cầu mục đích của mình, đối tượng hoá lực lượng bản chất của mình thông qua thực tiễn, con người đã tự khẳng định và thể hiện vai trò động lực đối với sự phát triển của xã hội. Nhờ hoạt động lao động, con người không chỉ tạo nên bước chuyển quan trọng của mình, “tách” khỏi thế giới động vật để trở thành con người theo đúng nghĩa của từ này, mà còn "tự nhân đôi mình lên một cách tích cực, một cách hiện thực” [3, tr.120] như C.Mác đã khẳng định. Ngoài ra, V.I. Lênin cũng chỉ rõ rằng, con người là nhân tố quyết định, làm biến đổi thế giới bằng chính những hành động thực tiễn của mình. Trên cơ sở thực tiễn, nhận thức của con người về hiện thực khách quan ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn, tiếp cận gần hơn bản chất của khách thể bằng cách sáng tạo hệ thống những khái niệm, phạm trù và sử dụng chúng như những phương tiện nhận thức thế giới. Quá trình vươn lên không ngừng trong nhận thức, phản ánh thế giới khách quan cũng chính là quá trình con người tích cực hoá năng lực tư duy của mình thông qua sự trừu tượng hoá, khái quát hoá, suy lý lôgíc để nắm bắt những quy luật vận động, phát triển của thế giới.
Theo quan niệm duy vật về lịch sử, sự phát triển của xã hội loài người từ trước đến nay suy cho cùng, được quyết định bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Trong cấu trúc của lực lượng sản xuất, con người không chỉ là một bộ phận cấu thành cơ bản, mà hơn thế, còn đóng vai trò đặc biệt quan trọng - kết nối các yếu tố khác với nhau để chúng phát huy tác dụng. Với tính cách một thành tố của lực lượng sản xuất, con người vừa là chủ thể sáng tạo và “tiêu dùng” sản phẩm của sản xuất, vừa là một nguồn lực