Thứ tư, điều chỉnh của pháp luật đối với các quan hệ về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội là hoạt động mang tính mệnh lệnh hành chính, như lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, xác định mục đích sử dụng đất; quyết định thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất....
1.4. Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam
Pháp luật quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Một là, quy định về chủ thể, thẩm quyền trong thực hiện quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, các tổ chức phát triển quỹ đất ở cấp tỉnh và cấp huyện. Trong đó, các tổ chức phát triển quỹ đất cấp tỉnh và cấp huyện là cơ quan có vai trò quan trọng trong thực hiện quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội;
Hai là, quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào các quan hệ quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; thu hồi đất, giải phóng mặt bằng, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; giao đất, cho thuê đất;...
Ba là, Quy định các nội dung cụ thể trong quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể: Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; Thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; Tài chính về đất đai, giá đất; Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất; Giám sát, thanh tra, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai.
Bốn là, quy định về trình tự, thủ tục trong thực hiện các hoạt động quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như: Trình tự, thủ tục trong việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; trình tự, thủ tục trong quá trình thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư; trình tự, thủ tục giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất...
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về quản lý quĩ đất phục vụ phát triển kinh tế- xã hội ở Việt nam
1.5.1. Đường lối, chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 7 Khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước với các quan điểm chỉ đạo:
Có thể bạn quan tâm!
- Hoàn thiện pháp luật về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội - 1
- Hoàn thiện pháp luật về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội - 2
- Qúa Trình Hội Nhập Quốc Tế Ngày Càng Sâu Rộng Của Việt Nam Với Khu Vực Và Thế Giới
- Một Số Cơ Chế Quản Lý Quỹ Đất Có Hiệu Quả
- Chính Phủ Phê Duyệt Quy Hoạch, Kế Hoạch Sử Dụng Đất Cấp Tỉnh; Quy Hoạch, Kế Hoạch Sử Dụng Đất Quốc Phòng; Quy Hoạch, Kế Hoạch Sử Dụng Đất An
Xem toàn bộ 99 trang tài liệu này.
Một là, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Nhà nước giao đất, cho thuê đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn theo quy định của pháp luật. Không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai.
Hai là, đất đai là hàng hóa đặc biệt, là nguồn nội lực và nguồn vốn to lớn, rất quý giá của đất nước, có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội sâu sắc.
Ba là, khai thác, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, phát huy tối đa tiềm năng, nguồn lực quý giá về đất đai, đầu tư phát triển đất đai.
Bốn là, đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai phải phù hợp với đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Năm là, kiên quyết lập lại trật tự về đất đai phù hợp với đường lối chính trị của Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân Việt Nam, các đoàn thể nhân dân và toàn dân trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai [41].
Trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII, Đại hội Đảng lần thứ IX, để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn mới, ngày 31/10/2012, tại Hội
nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã thông qua Nghị quyết số 19 - NQ/TW về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, qua đó đưa ra các quan điểm chỉ đạo đối với công tác quản lý về đất đai như sau:
Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu, được xác định cụ thể phù hợp với từng loại đất, từng đối tượng và hình thức giao đất, cho thuê đất. Nhà nước thực hiện quyền của chủ sở hữu thông qua việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cho phép chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế, xã hội theo quy định của pháp luật.
Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn và có các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, tuỳ theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Người sử dụng đất có nghĩa vụ phải đăng ký quyền sử dụng đất, sử dụng đất đúng mục đích, tuân thủ quy hoạch, trả lại đất khi Nhà nước có quyết định thu hồi đất, chấp hành pháp luật về đất đai.
Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách, pháp luật về đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình
và cá nhân, nhưng Nhà nước có chính sách phù hợp để đất nông nghiệp được người trực tiếp sản xuất nông nghiệp sử dụng với hiệu quả cao nhất.
Đất đai được phân bổ hợp lý, sử dụng đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả cao; bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; nâng cao chất lượng và bảo vệ đất canh tác nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia.
Chính sách, pháp luật về đất đai phải góp phần ổn định chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế; huy động tốt nhất nguồn lực từ đất để phát triển đất nước; bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, của người sử dụng đất và của nhà đầu tư; bảo đảm cho thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, phát triển lành mạnh, ngăn chặn tình trạng đầu cơ. Sử dụng có hiệu quả các công cụ về giá, thuế trong quản lý đất đai nhằm khắc phục tình trạng lãng phí, tham nhũng, khiếu kiện.
Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai ; đẩy mạnh cải cách hành chính , bảo đảm công khai , minh bạch trong quản lý đất đai . Phát
triển đa dạng các loại hình dic̣ h vu ̣về đất đai . Xây dưn
g hê ̣thống quản lý đất
đai tiên tiến, ưu tiên đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin đất đai hiện đại.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và toàn dân trong thực hiện chính sách, pháp luật về đất đai. Bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước cấp Trung ương về đất đai, đồng thời phân cấp phù hợp cho địa phương, có chế tài xử lý nghiêm các hành vi vi phạm chính sách, pháp luật về đất đai. Kiên quyết lập lại trật tự trong quản lý, sử dụng đất đai [42].
Như vậy, việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý đất đai nói chung, pháp luật về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội nói riêng phải phù hợp với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong
công cuộc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm quản lý, sử dụng quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội một cách hiệu quả, tránh lãng phí tham nhũng, khiếu kiện. Đảm bảo có sự thống nhất trong quản lý quỹ đất của nhà nước từ Trung ương đến địa phương.
1.5.2. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
1.5.2.1. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của nước ta giai đoạn hiện nay
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã được Đại hội lần thứ XI của Đảng thông qua với các quan điểm:
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Trong đó, phải đặc biệt coi trọng giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ để bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phát huy lợi thế dân số và con người Việt Nam, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trọng dụng nhân tài, chăm lo lợi ích chính đáng và không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mọi người dân, thực hiện công bằng xã hội.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. Phát triển đồng bộ, hoàn chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo đảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
1.5.2.2. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nước ta qua các giai đoạn 2016 - 2020
Ngày 12/4/2016, Quốc hội đã họp phiên toàn thể biểu quyết thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2016 - 2020. Theo đó các mục tiêu tổng quát gồm:
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, phấn đấu tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước. Đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh. Phát triển văn hoá, thực hiện dân chủ, tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, tăng cường phúc lợi xã hội và cải thiện đời sống nhân dân.
Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, quản lý hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường quốc phòng, an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế. Giữ gìn hòa bình, ổn định, tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.[43]
Pháp luật về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội phải phù hợp với chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng, Quốc hội và Chính phủ đưa ra. Có nghĩa là pháp luật về quản lý quỹ đất phải giúp tạo ra quỹ đất đồng bộ để phát triển về kinh tế, xã hội,... và đặc biệt, pháp luật quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội phải được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ môi trường, phát triển bền vững.
1.5.3. Qúa trình cải cách nền hành chính quốc gia
Ngày 17 tháng 09 năm 2001 Thủ tướng Chính Phủ đã ban hành Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg về Phê duyệt chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, trong đó có các nội dung quan trọng có ảnh hưởng lớn đến pháp luật về quản lý quỹ đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như:
Về cải cách thể chế có các nội dung quan trọng sau
Một là, đổi mới quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
Rà soát và hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật theo từng lĩnh vực, loại bỏ những quy định pháp luật không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lắp. Ban hành các quy định bảo đảm sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào quá trình xây dựng pháp luật, tổ chức tốt việc lấy ý kiến đóng góp của các tầng lớp nhân dân, của những người là đối tượng điều chỉnh của văn bản trước khi ban hành.
Hai là, bảo đảm việc tổ chức thực thi pháp luật nghiêm minh của cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức. Trong đó, đặc biệt phải phát huy hiệu lực của các thiết chế thanh tra, kiểm sát và tài phán để bảo đảm hiệu lực quản lý nhà nước, giữ gìn kỷ cương xã hội. Xử lý nghiêm người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm; khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Ba là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân; Mở rộng thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức ở các cơ quan hành chính nhà nước các cấp.
Về Cải cách tổ chức bộ máy hành chính
Một là, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, bố trí lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương các cấp cho phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Hai là, mục tiêu, đến năm 2005, về cơ bản ban hành xong và áp dụng các quy định mới về phân cấp trung ương - địa phương, phân cấp giữa các cấp chính quyền địa phương, nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của chính quyền địa phương, tăng cường mối liên hệ và trách nhiệm của chính quyền trước nhân dân địa phương.
Ba là, cải tiến phương thức quản lý, lề lối làm việc của cơ quan hành chính các cấp, loại bỏ những việc làm hình thức, không có hiệu quả thiết thực, giảm hội họp, giảm giấy tờ hành chính. Tăng cường trách nhiệm và năng lực của cơ quan hành chính trong giải quyết công việc của cá nhân và tổ chức.
Về thực hiện từng bước hiện đại hóa nền hành chính
Triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động chỉ đạo, điều hành của hệ thống hành chính nhà nước; áp dụng các công cụ, phương pháp quản lý tiên tiến, hiện đại trong các cơ quan hành chính nhà nước. Tăng cường đầu tư để đến năm 2010, các cơ quan hành chính có trang thiết bị tương đối hiện đại, cơ quan hành chính cấp xã trong cả nước có trụ sở và phương tiện làm việc bảo đảm nhiệm vụ quản lý; mạng tin học diện rộng của Chính phủ được thiết lập tới cấp xã.
Về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với quá trình phát triển kinh tế - xã hội và cải cách hành chính: Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức để từng bước chuyển sang quản lý cán bộ, công chức bằng hệ thống tin học ở các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và ở địa phương; Xác định cơ cấu cán bộ, công chức hợp lý gắn với chức năng, nhiệm vụ trong các cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương