Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam - 2

nghiệp không thể nào nhận biết được tình hình thực tế của các dự án đầu tư, các kế hoạch kinh doanh cũng như thực trạng hoạt động của công ty.

Việc tìm giải pháp tài chính tối ưu cho chiến lược phát triển bền vững trong thời kỳ hậu hội nhập luôn là vấn đề nan giải nhất đối với các doanh nghiệp hiện nay. Cho nên, theo các chuyên gia kinh tế: "Một trong những nước cờ mà doanh nghiệp cũng phải tính đến là việc quản lý và tiết kiệm doanh thu, chi phílợi nhuận ngày một hiệu quả hơn để sản phẩm và dịch vụ của mình ngày càng có chất lượng, giá cả phù hợp với khách hàng" [36].

Thực tế ở Việt Nam cho thấy mô hình CTCP khá phổ biến và được ưa chuộng. Bởi sự hình thành và phát triển của CTCP gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Theo ý kiến của LS Nguyễn Ngọc Bích: “CTCP là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển” [20, tr.38]. Chính vì ý nghĩa lớn lao như vậy đối với nền kinh tế mỗi quốc gia, cũng như đối với mỗi cá nhân nên pháp luật về CTCP luôn chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong các quy định pháp luật về doanh nghiệp, tổ chức kinh doanh hay công ty. Đây là mô hình doanh nghiệp hay tổ chức kinh doanh phổ biến nhất cho các doanh nghiệp có quy mô lớn [20, tr.39]. Cho nên việc quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận là hết sức cần thiết. Chính vì vậy nhu cầu tìm hiểu, tiến tới hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật liên quan đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận của loại hình doanh nghiệp này có ý nghĩa to lớn trên cả hai phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Mặc dù ở nước ta hiện nay có khá nhiều cấu trúc luật điều chỉnh doanh thu, chi phí và lợi nhuận của các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng nhưng ít nhiều vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế trong việc quản lý như nạn thất thu thuế, hiện tượng khai gian, khai giảm hóa đơn diễn ra tương đối phổ biến, nạn buôn bán hóa đơn và

những vi phạm khác về công tác kế toán, kiểm toán doanh thu, chi phí và lợi nhuận. Vì thế, pháp luật ở Việt Nam cần có những nghiên cứu đánh giá nghiêm túc, nhìn nhận khách quan, đúng đắn góp phần hoàn thiện vấn đề này để phù hợp với môi trường kinh doanh và loại hình doanh nghiệp trong bối cảnh nền kinh tế thị trường “hợp tác và mở rộng”, “hòa nhập chứ không hòa tan”.

Nhận thức được tầm quan trọng đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài: “Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn nghiên cứu của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận là một trong những khâu quan trọng và chính yếu nhất của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Bởi trong điều kiện đất nước ta hội nhập vào “sân chơi chung” thế giới, tài chính doanh nghiệp góp phần không nhỏ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, huy động tối đa các nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống cho người lao động và góp phần làm “phong phú” thêm Ngân sách Nhà nước. Điều đó đồng nghĩa với việc pháp luật nước ta cũng đã, đang và sẽ chịu nhiều sức ép trong việc điều chỉnh quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận hợp lý để vừa làm sao mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung, CTCP nói riêng nhưng vẫn đảm bảo lợi ích của Nhà nước. Mặc dù, số lượng công trình khoa học, các bài báo cáo, tham luận nghiên cứu về doanh thu, chi phí và lợi nhuận khá đa dạng ở một số loại hình doanh nghiệp cụ thể nhưng chủ yếu dựa trên góc độ quản trị tài chính, kế toán. Tiêu biểu gồm các công trình của các tác giả sau: Nguyễn Đình Cung (2009), Cơ sở khoa học hoàn thiện chế độ quản trị công ty cổ phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Bộ kế hoạch và đầu tư – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Hà Nội; Phạm Ngọc Côn (2002), Một số ý kiến nhằm hoàn thiện việc quản lý doanh nghiệp sau cổ phần hóa, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 3/2001, tr.49; Nguyễn Hưng, Quản

trị công ty – Tiến tới lành mạnh hóa môi trường hoạt động và phát triển doanh nghiệp, Tạp chí chứng khoán, số 5,6/2006, Nguyễn Thị Lan Hương (2005), Điều chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tài chính, 2005, số 11, tr 52- 54; Nguyễn Thị Lan Hương (2009), Một số so sánh về công ty cổ phần theo luật công ty Nhật Bản và luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí khoa học – Đại học quốc gia Hà Nội, 2009, số 25, tr 87-93...Ngoài ra còn có một đề tài Luận văn Thạc sĩ, chuyên đề tốt nghiệp bậc đại học có liên quan như: Lê Thị Phương Thảo (2009), Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế; Nguyễn Quang Tuấn (2004), Các giải pháp hoàn thiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế; Hoàn thiện cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo mô hình tập đoàn trong Tổng công ty than Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp bậc đại học...

Nhìn chung các công trình khoa học nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung nghiên cứu một số khía cạnh pháp lý có liên quan hoặc có ảnh hưởng đến doanh thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp nói chung hoặc chỉ đề cập đến một khía cạnh về mặt tài chính, kế toán chứ chưa có một nghiên cứu mang tính tổng quan đề cập cụ thể đến các cấu trúc pháp luật điều chỉnh doanh thu, chi phí và lợi nhuận của các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Cho nên đề tài “Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam” mà tác giả lựa chọn là một công trình nghiên cứu đầu tiên được thực hiện nhằm nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định của của pháp luật trong CTCP về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận.

3. Mục đích nghiên cứu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

Đề tài được thực hiện nhằm đạt được các mục đích cụ thể sau:

Thứ nhất, hệ thống, phân tích và làm rõ những quy định cơ bản của pháp luật Việt Nam về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP.

Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam - 2

Thứ hai, nghiên cứu đặc thù của pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong nội bộ CTCP ở Việt Nam hiện nay. Từ đó chỉ ra thực trạng, đánh giá tác động, ảnh hưởng của chúng trong thực tiễn quản lý pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.

Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng rút ra những bất cập, hạn chế của pháp luật và đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề pháp lý và thực tiễn của pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.

Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn về việc tìm hiểu thực trạng pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong nội bộ công ty cổ phần ở Việt Nam theo sự điều chỉnh chủ yếu của pháp luật thuế, Luật kế toán, Luật chứng khoán...

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh để đánh giá các thông tin thu thập được liên quan đến các vấn đề pháp lý về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam. Bên cạnh đó trong phần thực trạng, Luận văn sử dụng các số liệu chủ yếu từ một số CTCP được công khai trên các diễn đàn báo chí, mạng Internet và trong quá trình tác giả công tác tổng hợp được. Các phương pháp nghiên cứu trên sẽ giúp Luận văn làm sáng tỏ những luận cứ khoa học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài lời nói đầu, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về công ty cổ phần và quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.

Chương 3: Định hướng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ QUẢN LÝ DOANH THU, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN

TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN


1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần

1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần

Trên thế giới, CTCP đã ra đời và phát triển từ rất sớm góp phần quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các sử gia trên thế giới đã ghi nhận rằng, lịch sử của CTCP trên thế giới là lịch sử đã có từ hàng trăm năm. Theo John Mickletwait và Adrian Woolridge (2003) thì “loại hình công ty này là một ý tưởng cách mạng diễn biến theo một quá trình rất dài, thậm chí đã có ngay từ 3000 năm trước công nguyên, từ người Assyria, Phoenicia rồi người Hy Lạp. Họ đã lập ra những tổ chức để kinh doanh thương mại ở vùng Đại Trung Hải” [46, tr.28-29].

Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Ở Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty với trách nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh (Commercial Coporation) và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần (Kabushiki Kaisha)…

Từ thế kỷ XVIII, XIX sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng lớn, cạnh tranh, độc quyền. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản. Vì thế cho nên sự ra đời của CTCP là một tất yếu khách quan.

CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày 31/10/1600 bởi một

nhóm có 218 người và được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển Magellan. Ngày 01/6/1874, công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo:“Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi” [39, tr.35]. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các CTCP theo hình thức tương tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức…

Ở Mỹ, CTCP cũng ra đời sớm và phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính TNHH dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn [20, tr.36].

Chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế – xã hội cần có sự liên kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn đã dẫn đến sự ra đời của CTCP. Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà làm luật để có sự điều chỉnh hợp lý.

Ở Anh, Luật về CTCP được ban hành năm 1844. Theo đó các công ty muốn được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Quy định này đã tạo động lực mạnh mẽ cho các CTCP ở Anh phát triển. Mặt khác, luật này

không cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế này phản ánh sự nghi ngờ của dư luận về CTCP lúc đó. Tuy nhiên, vào những năm 1850 có hơn 40 công ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành lập công ty ở Pháp rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm 1855 ban hành luật về tính TNHH (Limited Liability Act) dành cho các công ty đã được thành lập theo luật về CTCP. Cuối cùng cả hai luật kia được sáp nhập thành một năm 1862 lấy tên là Luật về công ty (Companies Act).

Luật công ty của Mỹ được ban hành năm 1881 ở NewYork chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh do nguồn gốc hình thành nước Mỹ.

Riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về văn hoá và lịch sử. Ở Đức, luật CTCP được ban hành năm 1870. CTCP của Đức bị luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của Anh và Mỹ. Ở Pháp, bộ luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công ty bằng cách cho lập hội hợp tư cổ phần [20, tr.26].

Trải qua hàng trăm năm phát triển cho đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hình thức CTCP đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình CTCP “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao.

Nếu như trên thế giới, CTCP ra đời từ rất sớm và có bề dày lịch sử từ hàng trăm năm thì tại Việt Nam, lịch sử CTCP gắn liền với lịch sử “non trẻ” của luật công ty. Nhưng phải đến khi Luật công ty 1990 ra đời, CTCP mới thực sự được hiểu đúng nghĩa là “của người Việt Nam”. Mặc dù trước đó trong chiều dài lịch sử, CTCP đã ít nhiều được “manh mún”.

Cho đến ngày 21/12/1990, khi Luật công ty được ban hành, hình thức CTCP mới chính thức được quy định cụ thể.

Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/12/2022