Thứ tư, việc tìm ra những đặc điểm của pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân NHTM sẽ giúp xác định đúng những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật trong lĩnh vực này. Những đặc điểm chính của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM được xác định như: hoạt động mua lại, sáp nhập NHTM được điều chỉnh bằng cả hệ thống luật chung và luật chuyên ngành về ngân hàng; việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại NHTM chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về ngân hàng; khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, ngoài việc sử dụng khung pháp lý như các doanh nghiệp thông thường nhưng cần có những điều chỉnh riêng đối với loại hình này; pháp luật chỉ cho phép NHTM được tiến hành mua lại, sáp nhập đối với TCTD mà không cho phép TCTD hay các doanh nghiệp mua lại, sáp nhập với NHTM; để thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải tuân theo những tiêu chuẩn, điều kiện chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp khác; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập NHTM phải tuân thủ nghiêm ngặt theo quy định của pháp luật, có mức độ phức tạp cao hơn so với doanh nghiệp khác; để đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng, tài chính, tiền tệ quốc gia, đối với các NHTM yếu kém, có nguy cơ mất khả năng chi trả, mất khả năng thanh toán, cơ quan quản lý ngân hàng có quyền yêu cầu NHTM đó phải thực hiện tái cơ cấu, buộc sáp nhập, hợp nhất, mua lại.
Thứ năm, những nội dung điều chỉnh chủ yếu của pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM được xác định là: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Ngoài ra, còn có nhiều quan hệ xã hội khác phát sinh khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải có pháp luật điều chỉnh.
* Về đánh giá thực trạng pháp luật và thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay:
Thứ nhất, luận án khẳng định pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) là luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp đến việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại NHTM, đồng thời được đặt trong mối quan hệ với các luật khác khi giải quyết các vấn đề liên quan đến việc mua lại, sáp nhập NHTM. Vì vậy để hoàn thiện pháp luật, đồng thời nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với việc thành lập, hoạt động và tổ chức lại NHTM nói chung và việc mua lại, sáp nhập NHTM nói riêng cần phải hoàn thiện đồng bộ các đạo luật này chứ không chỉ hoàn thiện riêng Luật các TCTD.
Thứ hai, luận án chỉ rõ pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam
hiện nay còn có những tồn tại, hạn chế, nhiều vấn đề liên quan trực tiếp đến mua lại, sáp nhập NHTM, nhất là trong trường hợp thực hiện bắt buộc còn chưa có quy định cụ thể hoặc còn thiếu như tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập. Ngoài ra còn thiếu hay cần bổ sung, sửa đổi những quy định như quyền, nghĩa vụ của các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; quyền lợi của khách hàng (người gửi tiền); quyền lợi của người lao động; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng; hợp đồng mua lại, sáp nhập; thực hiện tiếp tục hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn. Thực tế đã phát sinh những vấn đề pháp lý liên quan đến sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vào ngân hàng yếu kém như việc chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu nhà nước ở một số ngân hàng yếu kém; cổ đông không đồng ý có sự can thiệp của NHNN vào cơ cấu sở hữu khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM cần phải được giải quyết.
Thứ ba, thông qua việc phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam hiện nay, luận án khẳng định việc NHNN mua lại bắt buộc một số NHTM yếu kém trong thời gian qua là để giải quyết tình thế nhưng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng nhằm tránh nguy cơ đổ vỡ hệ thống ngân hàng, bảo đảm an toàn hệ thống tài chính, tiền tệ quốc gia, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, đồng thời có tác dụng hữu hiệu trong việc ngăn chặn tình trạng bất tuân thủ các yêu cầu, điều kiện bảo đảm an toàn đối với hoạt động ngân hàng. Trong quá trình thực hiện, còn có nhiều vấn đề liên quan đến cơ chế pháp lý cần phải giải quyết khi NHNN mua lại bắt buộc một số NHTM yếu kém này. Xét trên góc độ pháp luật thì đã có căn cứ pháp lý để NHNN mua lại bắt buộc đối với các ngân hàng này. Tuy nhiên việc NHNN mua lại bắt buộc toàn bộ tài sản của NHTM với giá 0 đồng, không phải mua lại toàn bộ số cổ phần thuộc quyền sở hữu của tất cả cổ đông, nhưng tất cả cổ đông của NHTM bị chấm dứt toàn bộ quyền, lợi ích và tư cách cổ đông là chưa có cơ sở pháp lý vững chắc.
* Về một số giải pháp sửa đổi, bổ sung pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay, luận án đã đề xuất một số giải pháp mới như sau:
Thứ nhất, luận án kiến nghị thống nhất hình thức pháp lý về tổ chức lại doanh nghiệp được quy định trong các văn bản pháp luật. Bổ sung mua lại là một trong những hình thức pháp lý tổ chức lại doanh nghiệp trong Luật doanh nghiệp để phù hợp với quy định của Luật cạnh tranh. Luật các TCTD quy định cụ thể việc mua lại, sáp nhập đối với NHTM, thay vì quy định chung là tổ chức lại TCTD dưới
hình thức chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi hình thức pháp lý. Luật các TCTD và các văn bản pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành cần bổ sung các quy định khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM về: tiêu chuẩn, điều kiện mua lại, sáp nhập; trình tự, thủ tục mua lại, sáp nhập; hệ quả pháp lý khi mua lại, sáp nhập và giải quyết tranh chấp khi mua lại, sáp nhập.
Có thể bạn quan tâm!
- Pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay - 1
- Các Công Trình Nghiên Cứu Đề Cập Về Lý Luận Mua Lại, Sáp Nhập Doanh Nghiệp, Ngân Hàng
- Các Công Trình Nghiên Cứu Đề Cập Về Quan Điểm, Phương Hướng Và Các Giải Pháp Hoàn Thiện Pháp Luật Mua Lại, Sáp Nhập Ngân Hàng Thương Mại
- Khái Quát Chung Về Mua Lại, Sáp Nhập Và Pháp Luật Về Mua Lại, Sáp Nhập Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 177 trang tài liệu này.
Thứ hai, luận án kiến nghị cần tiếp tục hoàn thiện, sửa đổi, bổ sung các quy định về mua lại, sáp nhập NHTM, cụ thể là: định giá ngân hàng; hợp đồng mua lại, sáp nhập; thực hiện tiếp tục hợp đồng cấp tín dụng hợp vốn; chuyển sở hữu tư nhân thành sở hữu nhà nước ở một số ngân hàng yếu kém; quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; quyền lợi của khách hàng (người gửi tiền); quyền lợi của người lao động tại các ngân hàng bị mua lại, sáp nhập; thủ tục xử lý các giao dịch với người gửi tiền và người vay trước khi giao dịch mua lại, sáp nhập được xác lập; thực hiện lãi suất tiền gửi, lãi suất, phí cấp tín dụng; lộ trình thực hiện quy định về tỷ lệ an toàn, nợ xấu, sở hữu chéo khi thực hiện mua lại, sáp nhập NHTM, trong cả trường hợp thực hiện tự nguyện và bắt buộc.
Thứ ba, luận án kiến nghị việc cơ quan có thẩm quyền chấp thuận mua lại, sáp nhập NHTM ở Việt Nam, đồng thời lại tổ chức thanh tra, giám sát trong quá trình thực hiện là không khách quan, trong khi hoạt động của NHTM có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế, cần đảm bảo hoạt động ngân hàng được diễn ra theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, khi thực hiện mua lại, sáp nhập bắt buộc đối với NHTM yếu kém có thể phải sử dụng đến nguồn ngân sách lớn của nhà nước. Vì vậy pháp luật cần bổ sung quy định một cơ quan giám sát độc lập tiến trình này để đảm bảo sự chặt chẽ và tính khách quan.
5. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục, luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề liên quan đến đề tài luận án.
Chương 2: Những vấn đề lý luận của pháp luật về mua lại và sáp nhập ngân hàng thương mại.
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về mua lại, sáp nhập ngân hàng thương mại ở Việt Nam.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Mua lại và sáp nhập trong lĩnh vực ngân hàng đã trở thành xu thế khách quan, tất yếu với nhiều lợi ích to lớn, không chỉ với bản thân các ngân hàng mà còn với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Trong thời gian qua, nhiều công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập, pháp luật về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp nói chung và trong lĩnh vực NHTM, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án đã được quan tâm thực hiện ở trong và ngoài nước.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
1.1.1.1. Các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, ngân hàng dưới góc độ kinh tế, tài chính
Trong các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, ngân hàng dưới góc độ kinh tế, tài chính có thể kể đến các sách, tài liệu nước ngoài, tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài như: Sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của Peter S.Rose do Nhà xuất bản (Nxb) Tài chính, Hà Nội phát hành năm 2000; sách “Applied Mergers and Acquitions” của Bruner F. Robert and Perella P. Joseph, năm 2004; sách “Hướng dẫn cơ bản về mua bán công ty” của Wilbur M. Yegge do Nxb. Thống kê, Hà Nội phát hành năm 2006; sách “Mergers and Acquisitions” của
J. Fred Weston và Samuel C. Weaver (McGraw-Hill, năm 2007); sách “Cẩm nang hướng dẫn mua lại và sáp nhập” của Timothy J.Galpin, Mark Herdon do Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh phát hành năm 2009; sách “Mua lại và sáp nhập căn bản - Các bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư” của Michael E.S. Frankel do Nxb. Tri Thức, Hà Nội phát hành năm 2009; sách “Mua lại và sáp nhập thông minh - Kim chỉ nam trên trận đồ sáp nhập và mua lại” của Scott Moeller, Chis Brady do Nxb. Tri Thức, Hà Nội phát hành năm 2009; sách “Wall Street Words: An A to Z Guide to Investment Terms for Today’s Investor” của David L.Scott; sách “Mergers & Acquisition From A to Z” của Andrew J. Sherman, Milledge A. Hart do Nxb. Amacom phát hành năm 2006; sách “A practical guide to mergers, acquisitions, and divestitures” do Nxb. Delta Publishing Company phát hành năm 2009; sách “Merger, Acquisition, and other Restructuring Activities” của
Donal DePamphilis, năm 2010; tài liệu nghiên cứu về mua lại, sáp nhập “Mergers and Acquisitions” của Alexander Robert, William Wallance, Peter Moles do Edinburgh Business School, Heriot-Watt University phát hành năm 2012... Các công trình nghiên cứu này đã cung cấp những lý luận, kiến thức cơ bản về M&A, nhiều cuốn sách còn được coi là cẩm nang về M&A cho các doanh nghiệp. Trong các công trình nghiên cứu trên, có một số công trình đáng chú ý như sau:
- Sách “Quản trị ngân hàng thương mại” của tác giả Peter S.Rose, Nxb. Tài chính, Hà Nội (2000). Đây là cuốn sách có chuyên môn cao về NHTM được dùng làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu ở nhiều trường đại học tại Mỹ. Với 23 chương cùng các ví dụ và danh mục thuật ngữ, cuốn sách chứa đựng nội dung rất phong phú về hoạt động của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Cuốn sách đề cập tới rất nhiều khía cạnh về công nghệ quản lý NHTM trong mối quan hệ với cơ quan quản lý tiền tệ, với cơ quan quản lý tài chính và những vấn đề luật pháp. Chương 22 của cuốn sách trình bày nội dung về quản trị hoạt động sáp nhập và mua lại ngân hàng bao gồm các nội dung chính như sau:
Thứ nhất, về động cơ của hoạt động sáp nhập ngân hàng. Theo tác giả, sáp nhập thường diễn ra với các lý do như: (1) Các cổ đông ngân hàng mong muốn tăng giá trị tài sản hay giảm rủi ro và nhờ đó củng cố lợi ích của họ; (2) Các nhà quản lý ngân hàng hy vọng nhận được mức lương cao hơn, tạo ra sự đảm bảo về nghề nghiệp hay uy tín nhờ việc quản lý một ngân hàng lớn hơn; (3) Nhà quản lý, các cổ đông đều được hưởng lợi ích từ hoạt động sáp nhập. Ngoài ra, cũng có những động cơ khác được kể đến thông qua các vụ sáp nhập các ngân hàng lớn nhất đang diễn ra trong các năm gần đây như: Tiềm năng lợi nhuận; hạn chế rủi ro; động cơ về thuế, thị trường; động cơ tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả và giải cứu các ngân hàng sụp đổ. Đã có rất nhiều các vụ sáp nhập ngân hàng được Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi Liên bang Mỹ (FDIC) và các cơ quan pháp luật khuyến khích vì đây là một phương pháp để bảo vệ khoản dự trữ bảo hiểm tiền gửi và tránh cho việc phục vụ khách hàng bị gián đoạn khi ngân hàng có nguy cơ phá sản.
Thứ hai, về tiến hành sáp nhập. Tác giả cuốn sách cho rằng, dù xuất phát từ bất cứ mục đích gì thì về bản chất sáp nhập là một giao dịch tài chính dẫn đến việc một ngân hàng này mua lại một hay một vài tổ chức ngân hàng khác. Ngân hàng bị sáp nhập phải từ bỏ các biểu tượng cũ để lấy tên mới, thường là tên của ngân hàng mua lại. Tài sản và các nguồn vốn của ngân hàng bị sáp nhập sẽ nhập với tài sản và
nguồn vốn của ngân hàng sáp nhập. Sáp nhập ngân hàng thường được tiến hành sau khi các nhà quản lý của hai ngân hàng đã đi đến những thỏa thuận cụ thể. Các bước hợp nhất sẽ được ban lãnh đạo của mỗi ngân hàng thông qua và cổ đông của mỗi ngân hàng bỏ phiếu.
Thứ ba, về cách thức hoàn tất việc sáp nhập. Thông thường, việc sáp nhập được tiến hành thông qua việc mua lại cổ phiếu hoặc mua lại tài sản. Với phương thức mua lại cổ phiếu, ngân hàng bị sáp nhập buộc phải ngừng hoạt động, ngân hàng sáp nhập sẽ tiếp quản tất cả tài sản và nguồn vốn của ngân hàng bị sáp nhập. Với phương thức mua lại tài sản, ngân hàng yêu cầu sáp nhập sẽ dùng tiền mặt hoặc cổ phiếu để mua tất cả hay một phần tài sản của ngân hàng bị sáp nhập.
Thứ tư, về quá trình ra quyết định sáp nhập. Cơ quan quản lý Liên bang Mỹ phải áp dụng những tiêu chuẩn do Luật sáp nhập ngân hàng và Hướng dẫn của Bộ Tư pháp quy định cho các yêu cầu sáp nhập. Đạo luật sáp nhập ngân hàng đòi hỏi Cơ quan Liên bang chịu trách nhiệm giám sát chính đối với ngân hàng yêu cầu sáp nhập phải tính đến tác động của vụ sáp nhập tới sự thuận lợi cho công chúng, tính đến nhu cầu của công chúng đối với việc cung cấp các dịch vụ tài chính chất lượng cao tại mức giá hợp lý.
- Sách sách “Mua lại và sáp nhập từ A đến Z” của Andrew J.Sherman, Milledge A. Hart, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009) và “M&A- Mua lại và sáp nhập căn bản, các bước quan trọng trong quá trình mua bán doanh nghiệp và đầu tư” của tác giả Michael E.S. Frankel, Nxb Tri thức, Hà Nội (2009). Nội dung chính của hai cuốn sách này như sau:
Thứ nhất, về thuật ngữ M&A. M&A là một thuật ngữ để mô tả các thương vụ liên quan đến sự thay đổi, chuyển giao quyền kiểm soát một doanh nghiệp. Các hình thức M&A bao gồm: mua tài sản của doanh nghiệp, mua cổ phiếu, mua lại doanh nghiệp dựa trên vốn vay nợ; mua lại doanh nghiệp để giữ quyền quản lý.
Thứ hai, về các bên tham gia M&A. Chủ thể tham gia thương vụ mua lại và sáp nhập doanh nghiệp cùng với vai trò, động cơ thúc đẩy tham gia M&A, cách thức quản lý các giao dịch không chỉ giới hạn ở bên bán và bên mua mà còn có sự tham gia của các chủ thể khác như kiểm toán viên, đội ngũ tư vấn, các nhà đầu tư tài chính...
Thứ ba, về những công việc cần chuẩn bị khi thực hiện M&A. Một trong những bước quan trọng của quá trình chuẩn bị là lựa chọn nhà tư vấn. Chính các nhà tư vấn sẽ trợ giúp các bên chuẩn bị những công việc cần thiết để thực hiện
thành công thương vụ mua lại và sáp nhập. Cùng với chiến lược tổng thể của công ty, chiến lược M&A cần được ban giám đốc và đội ngũ điều hành công ty phê duyệt và ủng hộ. Điều này thậm chí còn quan trọng hơn rất nhiều khi vạch kế hoạch cho một thương vụ M&A. Thông thường, việc kêu gọi sự ủng hộ đối với một chiến lược M&A trước khi đề xuất một giao dịch cụ thể là việc làm rất quan trọng. Ngoài ra, các tác giả cũng trình bày rất nhiều những công việc trước khi thực hiện M&A mà bên mua và bên bán cần phải quan tâm, để đảm bảo rằng một thương vụ M&A đã được chuẩn bị kỹ lưỡng, mang lại thành công cho các bên.
Thứ tư, về thẩm định chi tiết doanh nghiệp mục tiêu của bên mua. Thẩm định chi tiết là việc bên mua có nghĩa vụ xem xét chi tiết và cẩn trọng về thương vụ mua lại và sáp nhập. Quá trình này sẽ xem xét toàn diện về pháp lý, tài chính và chiến lược trên cơ sở tất cả những tài liệu, những quan hệ hợp đồng, lịch sử hoạt động và cấu trúc tổ chức của bên bán. Nhóm làm việc về tài chính, chiến lược thường do đội ngũ quản lý, kế toán và nhóm làm việc về thẩm định pháp lý do cố vấn của bên mua thực hiện. Thẩm định pháp lý sẽ phân tích những vấn đề về tổ chức, tài chính, quản lý và nhân sự, những hợp đồng và giao kết chính của bên bán, kiện tụng và khiếu nại. Bên mua sẽ phải thu thập các dữ liệu liên quan đến điều kiện để giao dịch mua lại và sáp nhập có hiệu lực pháp luật, đến sự điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh và những rủi ro có thể phải gánh chịu sau khi mua lại, sáp nhập…
Thứ năm, về định giá doanh nghiệp và các phương pháp định giá doanh nghiệp. Định giá doanh nghiệp hay xác định giá trị doanh nghiệp là việc ước tính giá trị hiện hữu và tiềm năng của doanh nghiệp tại một thời điểm xác định bằng cách sử dụng các phương pháp định giá thích hợp. Định giá doanh nghiệp có thể được bên bán tiến hành hoặc xác nhận trước khi chào cho bên mua và giá cuối cùng được xác định bởi các bên trong quá trình đàm phán về giá. Trong hợp đồng M&A, mục giá giao dịch có thể chỉ chiếm một dòng nhưng đó là kết quả của một quá trình làm việc ròng rã và đầy thách thức đối với cả hai bên. Do đó các bên mua bán, sáp nhập doanh nghiệp phải sử dụng các phương pháp định giá theo nguyên tắc nhất định và phù hợp với giá thị trường. Khi đề cập giá trị của một doanh nghiệp là nói đến cả giá trị tài sản hữu hình và giá trị tài sản vô hình. Trong M&A, xác định đúng, đủ giá trị tài sản vô hình giúp bên bán đánh giá đúng giá trị của mình và bên mua cũng nhận thức được tài sản vô hình mà mình sẽ sở hữu cũng như giá trị của những tài sản này.
Thứ sáu, về kết thúc thương vụ và hậu mua lại, sáp nhập. Một cách đơn giản
nhất được các tác giả đề cập, ký kết thương vụ là ký kết một thỏa thuận để bán một công ty, trong khi đó kết thúc một thương vụ là hoàn thành quá trình mua bán đó. Khoảng trống giữa việc ký kết và kết thúc sẽ thay đổi dựa trên những nhân tố bên ngoài. Nguyên nhân việc trì hoãn phổ biến và kéo dài nhất là việc phê chuẩn theo pháp luật. Với những doanh nghiệp phải điều chỉnh nhiều, hoặc đôi khi là việc một doanh nghiệp lớn cần phải được sự chấp thuận từ những cơ quan quản lý. Sau khi kết thúc giao dịch M&A, các hợp đồng, giấy phép và các quyền, nghĩa vụ cũng cần được chuyển giao và thay đổi. Bên cạnh đó còn có những thủ tục khác cần được hoàn thành trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi hoàn tất thương vụ. Những thách thức mà bên mua doanh nghiệp cũng phải đối mặt thời kỳ hậu mua lại và sáp nhập như sự kết hợp nguồn nhân lực, văn hóa doanh nghiệp, hệ thống hoạt động và quản lý thông tin, hệ thống kế toán...
- Bài viết “Banking M&A: What about the brand?” của Joseph Benson và Jack Foley trên marketingprofs.com. Theo tác giả, thương hiệu không phải là tất cả mọi thứ về một ngân hàng, nó chỉ là điều làm cho những ngân hàng tạo ra khác biệt. Thương hiệu tạo ra sự khác biệt và ưu tiên đối với khách hàng. Đó là lý do tại sao khách hàng chọn để giao dịch với một ngân hàng này mà không phải là một ngân hàng khác. Thương hiệu thường đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên các giá trị này. Theo như nhận định trong một nghiên cứu gần đây của hãng nghiên cứu McKinsey, thì “các tài sản vô hình tạo nên phần lớn giá trị của các thỏa thuận liên kết và sáp nhập, trong đó thương hiệu chiếm một phần đáng kể trong những dạng tài sản vô hình này”. Tác giả chỉ ra bốn chiến lược phát triển thương hiệu cơ bản đối với các ngân hàng: (1) Hố đen; (2) Tận dùng; (3) Chung sống; (4) Những khởi đầu mới. Mỗi chiến lược lại có những ưu điểm riêng.
1.1.1.2. Các công trình nghiên cứu về mua lại, sáp nhập doanh nghiệp, ngân hàng dưới góc độ pháp lý
- Bài dịch “Luật chống độc quyền ở Mỹ” do N.Gregory Mankiw, 5th edition (2008), Principles of Microeconomics, South Western Cengage Learning phát hành, được Lê Thị Khánh Ly biên dịch có những nội dung chính cho biết mục đích của chính sách chống độc quyền là ngăn cản độc quyền, khuyến khích cạnh tranh và đạt được sự phân bổ nguồn lực hiệu quả. Mặc dù tất cả những nhà kinh tế học đều đồng ý rằng những mục tiêu này rất tốt, tuy nhiên có một số ý kiến mâu thuẫn nhau về sự thích hợp và hiệu quả của chính sách chống độc quyền ở Mỹ. Sau những năm 1800