Tình Hình Phát Triển Kinh Tế Xã Hội Ở Địa Phương


CHƯƠNG 4:


PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG THẺ ĐA NĂNG CỦA NGÂN HÀNG ĐÔNG Á CHI NHÁNH CẦN THƠ


4.1. MÔI TRƯỜNG BÊN TRONG:

4.1.1. Tài chính kế toán:

Qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ đã phân tích ở trên, ta thấy các chỉ tiêu tài chính kế toán của Ngân hàng rất tốt. Qua các năm, Ngân hàng đều kinh doanh có lãi, khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế địa phương. Từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển thẻ của Ngân hàng trong thời gian tới. Ngân hàng có nhiều điều kiện hơn để đầu tư phát triển sản phẩm thẻ, giữ vững được hướng đi xem chiến lược thẻ là chủ đạo.

Bên cạnh đó, ta thấy số lượng thẻ phát hành, doanh số phát sinh trên tài khoản đều tăng cho thấy hoạt động thẻ của Ngân hàng đang đi đúng hướng, sản phẩm thẻ Đông Á mang lại niềm tin ngày càng lớn cho khách hàng. Đây là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy Ngân hàng tăng cường đầu tư vào hoạt động kinh doanh thẻ hơn nữa để phục vụ tốt khách hàng, đồng thời mang lại lợi nhuận cho Ngân hàng.

4.1.2. Phát triển công nghệ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.

Đối với sản phẩm thẻ, công nghệ là yếu tố quyết định sự sống còn của sản phẩm này, Ngân hàng Đông Á là một trong những Ngân hàng đi tiên phong trong việc đầu tư phát triển công nghệ cao, mang lại các tiện ích hiện đại và tiện lợi cho người sử dụng.

Như đã biết, máy ATM Ngân hàng Đông Á là loại máy có những tính năng rất ưu việt như nhận tiền gửi trực tiếp, màn hình ATM cảm ứng, có giọng nói hướng dẫn người sử dụng. Điều này làm nên sự khác biệt của Đông Á so với các Ngân hàng khác.

Phân tích tình hình kinh doanh thẻ đa năng tại ngân hàng đông á chi nhánh Cần Thơ - 7

Bên cạnh đó, từ ngày 23/01/2008 Ngân hàng chính thức triển khai ứng dụng DongA Mobile Banking trên điện thoại di động có hỗ trợ Java – giúp khách hàng dễ dàng thực hiện các giao dịch tài chính mọi lúc mọi nơi. Ứng dụng này có

nhiều tiện ích nổi trội như: không cần nhớ cú pháp, giao diện thân thiện, dễ dùng; không lưu mật mã; các lệnh, giao dịch gởi đi, nhận về được mã hóa đảm bảo tính an ninh, bảo mật. Với DongA Mobile Banking, khách hàng có thể thực hiện nhiều dịch vụ như: Tra cứu số dư, Liệt kê giao dịch, Chuyển khoản, Mua thẻ trả trước, Thanh toán trực tuyến các đơn hàng mua qua mạng, nạp tiền điện tử, khóa/ mở khóa tài khoản Thẻ, đổi mật mã. Lần đầu tiên tại Việt Nam, khách hàng có thể chuyển khoản qua điện thoại di động với hạn mức lên đến 500 triệu/ngày. Việc ứng dụng Mobile Banking ra đời được xem như một bước tiến mới của Ngân hàng Đông Á điện tử đáp ứng nhu cầu giao dịch nhanh chóng, tiện dụng và an toàn.

Với mục tiêu năm 2010 trở thành tập đoàn tài chính tốt nhất Việt Nam, lãnh đạo Ngân hàng Đông Á nhận thấy rằng việc đẩy mạnh áp dụng công nghệ trong hoạt động kinh doanh và việc cung ứng những sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao tạo nhiều tiện ích và thuận lợi cho giao dịch của khách là một yếu tố rất quan trọng. Vì vậy, Ngân hàng Đông Á đã tập trung đầu tư mạnh vào lĩnh vực công nghệ Ngân hàng như là tiền đề cho kế hoạch này và cho đến thời điểm hiện tại, Ngân hàng có thể tự hào là một trong những Ngân hàng hàng đầu của Việt Nam trong việc ứng dụng công nghệ và đưa ra các sản phẩm mang tính công nghệ đột phá (máy ATM thế kỷ 21, sản phẩm dịch vụ liên quan thẻ và chứng khoán, mobile banking,…)

4.1.3. Quản trị nguồn nhân lực:

Điểm nổi bật trong hoạt động quản trị và điều hành của Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ là Ban lãnh đạo rất chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực vì đây là yếu tố quan trọng, quyết định đến sự thành công của Ngân hàng.

Ở Ngân hàng Đông Á, nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa bao gồm kinh nghiệm, kỹ năng, trình độ đào tạo và những sự tận tâm, nỗ lực hay bất cứ đặc điểm nào khác tạo giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh cho tổ chức của những người lao động.

Về kinh nghiệm: Bên cạnh việc sử dụng nguồn nhân lực trẻ đang là hướng đi của Ngân hàng, các cán bộ lãnh đạo và chủ chốt là những người giàu

kinh nghiệm trong lĩnh vực ngân hàng, là hướng phấn đấu và tấm gương tốt cho các nhân viên còn lại.

Về kỹ năng: Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ có một đội ngũ cán bộ làm công tác thẻ trẻ trung, năng động, ham học hỏi. Tuy kinh nghiệm chưa nhiều nhưng với sức trẻ và được sự quan tâm đào tạo của Ban lãnh đạo Ngân hàng, bộ phận cán bộ thẻ có cơ hội đẩy nhanh việc phát triển kinh doanh thẻ của Ngân hàng trong tương lai. Tuy nhiên hiện nay tính chuyên nghiệp cũng như sự hiểu biết về lĩnh vực thẻ đối với các nhân viên làm công tác thẻ còn hạn chế vì đây là hoạt động mới, và chức năng nhiệm vụ của các nhân viên thẻ vẫn còn kiêm nhiệm, Ngân hàng chưa có một bộ phận thẻ hoạt động độc lập. Phòng Khách hàng cá nhân ngoài chức năng nhiệm vụ chính đang thực hiện còn có nhiệm vụ phát triển hoạt động thẻ cho Ngân hàng.

Về trình độ đào tạo và các đặc điểm khác: Để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ, không chỉ cần sự nỗ lực của các cán bộ thẻ mà đòi hỏi sự quan tâm của toàn thể nhân viên Ngân hàng. Nguồn nhân lực của Ngân hàng sẽ là một lực lượng nhân viên phát hành thẻ rất tiềm năng vì mỗi nhân viên đều có rất nhiều mối quan hệ và từ đó ngoài nghiệp vụ chính đang thực hiện, mỗi nhân viên đều có thể là nhân viên phát triển thẻ nghiệp dư. Với tuổi đời bình quân là 32 tuổi, trong đó trên 60% có trình độ đại học và trên đại học là một lợi thế của Ngân hàng trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt trên lĩnh vực này. Tuy nhiên, thường đa số các nhân viên này chỉ nắm rõ nghiệp vụ riêng của mình chứ không hoàn toàn nắm vững nghiệp vụ thẻ. Do đó, Ngân hàng cần phải chú trọng đến công tác đào tạo và tái đào tạo để nhân viên nâng cao trình độ hiểu biết về các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng mình cũng như các kỹ năng khác, nhất là kỹ năng giao tiếp. Bởi vì, ngành Ngân hàng, trước tiên phải nhìn nhận là một ngành cung cấp dịch vụ đặc thù, trong đó bí quyết thành công trong giao tiếp với khách hàng cần phải được quan tâm hàng đầu.

4.1.4. Dịch vụ khách hàng:

Trong kinh doanh thẻ, bên cạnh công nghệ là yếu tố đi đầu, một nhân tố nữa ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động này, đó là cách phục vụ khách hàng. Ở Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ, không chỉ các cán bộ thẻ mới làm tốt công việc này. Mà các bộ phận khác trong các lĩnh vực khác đều mong muốn

đem lại cho khách hàng sự hài lòng nhất khi sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Vì vậy, số lượng khách hàng đến với Ngân hàng ngày càng đông, không những chỉ riêng trong lĩnh vực thẻ mà còn trong tất cả các dịch vụ kinh doanh khác của Ngân hàng.

Đặc biệt, Trung tâm dịch vụ khách hàng chính thức đi vào hoạt động từ ngày 15/06/2007, với chức năng hỗ trợ tư vấn khách hàng qua các kênh: tổng đài 1900545464, chuyên mục Tư vấn trên website, sẵn sàng giải quyết các thắc mắc, khiếu nại của khách hàng.

Tuy nhiên, do lượng khách hàng ngày càng đông, đội ngũ nhân viên hiện tại của Ngân hàng không thể phục vụ cùng một lúc tất cả các khách hàng, nên xảy ra tình trạng khách hàng phải chờ đợi, mất thời gian của khách hàng. Vì thế trong thời gian tới, Ngân hàng cần tăng cường đội ngũ nhân viên của mình để phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn.

4.1.5. Văn hóa Ngân hàng:

Với định hướng chiến lược " Bình dân hóa dịch vụ Ngân hàng" được xem như là những hướng dẫn về cách cư xử trong và ngoài nội bộ Ngân hàng. Ở Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ, mọi nhân viên Ngân hàng luôn hành động theo văn hóa Ngân hàng và đều vì mục tiêu chung của Ngân hàng. Theo đó, các nhân viên làm việc trong Ngân hàng giống như trong một gia đình, mọi người đều có sự quan tâm lẫn nhau. Đến các ngày lễ, sinh nhật, lãnh đạo Ngân hàng đều có sự quan tâm tới nhân viên bằng cả vật chất lẫn tinh thần. Điều đó tạo nên không khí đoàn kết, sẵn sàng làm việc hết mình cho mỗi nhân viên.

Hàng năm, Ngân hàng đều tổ chức các khóa huấn luyện kỹ năng nhằm nâng cao trình độ của nhân viên, các chuyến du lịch nhằm tạo sự thoải mái, đoàn kết, gắn bó cho các nhân viên trong Ngân hàng tạo nên một tập thể hoạt động có hiệu quả cao đem lại uy tín cho Ngân hàng.

4.2. MÔI TRƯỜNG BÊN NGOÀI:

4.2.1. Môi trường pháp lý

Hiện nay, mặc dù xuất hiện ồ ạt nhưng mức độ và hiệu quả sử dụng thẻ thanh toán chưa cao. Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, giá trị thanh toán của các loại thẻ thanh toán chiếm chưa tới 1% tổng giá trị thanh toán, yếu nhất so với các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt khác (ủy nhiệm chi, ủy

nhiệm thu, séc). Vì thế làm cách nào để thúc đẩy hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và làm cho nó trở thành thói quen của người dân cũng đang là một vấn đề được quan tâm hàng đầu.

Việc mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua Ngân hàng như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đang được các ngành liên quan triển khai một cách tích cực. Thực hiện Nghị quyết X, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 161 ngày 28/12/2006 về thanh toán bằng tiền mặt; Bộ Tài chính thì đã ban hành Thông tư 33/2006/TT-BTC ngày 17/4/2006 về việc quản lý thu chi tiền mặt qua hệ thống Kho bạc Nhà nước. Có thể nói, sự ra đời của Nghị định 161 là một bước ngoặt lịch sử trong tư duy của ngành Ngân hàng trong lĩnh vực thanh toán không dùng tiền mặt, vì trong 20 năm qua thanh toán đã không còn là một lĩnh vực hoạt động được quan tâm đầy đủ. Nghị định 161 ra đời với tư cách là một cơ sở pháp lý nhằm lập lại kỷ cương trong thanh toán nói chung, trong việc sử dụng tiền mặt, trong thanh toán qua Ngân hàng; và đặc biệt trong việc phát triển và mở rộng các dịch vụ thanh toán tại các Ngân hàng thương mại.

Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định phê duyệt Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến 2020 tại Việt Nam (Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006). Theo Đề án trên, những nội dung chủ yếu nhất để thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt đã được Đề án đề cập đến một cách đầy đủ và toàn diện. Trước hết, Đề án đã đặt vấn đề hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế. Đây là một trong những phần việc cần sự đầu tư nhiều nhất về mọi mặt:

- Đối với thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công, Đề án đã đưa ra những nội dung thiết thực như quản lý chi tiêu trong khu vực Chính phủ bằng phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt; trả lương qua tài khoản; chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản.

- Đối với thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực doanh nghiệp, đây là một trong những khu vực mà việc thanh toán không dùng tiền mặt cần phải được coi trọng nhất; có tính quyết định đến vấn đề tổ chức thanh toán qua Ngân hàng có được thực hiện hay không được thực hiện.

- Thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư là một trong những nội dung quan trọng nhất và được Đề án đề cập một cách sâu sắc và toàn diện nhất nhằm cải thiện được tình hình thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực này.

Như vậy, những nội dung cơ bản và cũng là những biện pháp rất quan trọng nhằm mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua Ngân hàng đã được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện trong Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020. Việc triển khai thực hiện Đề án này cũng là quá trình đưa các quy định về thanh toán bằng tiền mặt trong Nghị định 161 vào cuộc sống.

Tuy đã có những cố gắng đáng ghi nhận, nhưng chúng ta chưa có một môi trường pháp lý thống nhất cho việc phát hành và sử dụng thẻ. Ngân hàng Nhà nước đã ban hành "Văn bản hướng dẫn thực hiện thanh toán thẻ quốc tế tại Việt Nam" và "Quy chế chính thức về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ". Tuy nhiên, trong quy chế, việc phát hành thẻ vẫn yêu cầu phải bảo đảm tín dụng như tín dụng trung và dài hạn, cho dù phát hành thẻ là loại tín dụng có tính chất khác hẳn. Các cá nhân muốn sử dụng thẻ buộc phải thế chấp hoặc ký quỹ với một tỷ lệ khá cao, làm hạn chế việc phát hành và sử dụng thẻ của các Ngân hàng thương mại. Việc quản lý ngoại hối trong dịch vụ thẻ cũng chưa được đề cập riêng và rõ ràng, nên các Ngân hàng còn thận trọng trong cấp hạn mức tín dụng và thanh toán cho các khách hàng. Bộ Luật hình sự Việt Nam hiện nay cũng chưa quy định tội danh và khung hình phạt cho những vi phạm trong lĩnh vực thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Một vài trường hợp đặc biệt đã và sẽ xảy ra có thể gây những khó khăn cho Ngân hàng trong phân xử, giải quyết các tranh chấp phát sinh, gây nên phí tổn về tài chính.

4.2.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương

Cần Thơ là thành phố trọng điểm của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có dân cư đông đúc với dân số hơn 1,2 triệu người. Mật độ dân số là 813 người/km2. ( Nguồn: http://www.canthoonline.com, 27/12/2007). Điều đó cho

thấy lượng khách hàng tiềm năng trên 1 khu vực của thành phố Cần Thơ là rất lớn, do đó hiện tại số lượng ngân hàng ở Cần Thơ xuất hiện ngày càng nhiều và đang cạnh tranh gay gắt trong việc lôi kéo khách hàng về ngân hàng mình.

Với những mục tiêu phát triển trong thời gian tới là: Xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trở thành thành phố văn minh, hiện đại, xứng đáng là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ lưu sông Mê Kông; là trung tâm công nghiệp, trung tâm thương mại - dịch vụ, du lịch, trung tâm giáo dục - đào tạo và khoa học

- công nghệ, trung tâm y tế và văn hóa, là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế; là địa bàn trọng điểm giữ vị trí chiến lược về quốc phòng, an ninh của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020 thành phố Cần Thơ trở thành cơ bản trở thành thành phố công nghiệp, đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 15,5-16%/năm; Chỉ số phát triển con người của Cần Thơ nằm trong nhóm tỉnh, thành có chỉ số phát triển cao, thu nhập bình quân đầu người đạt 1.150 - 1.200 USD/năm. (Nguồn: http://www.baocantho.com.vn, 15/2/2008)

Sự phát triển kinh tế xã hội nói trên sẽ tạo cơ hội phát triển cho thị trường dịch vụ ngân hàng nói chung và cho Ngân hàng Đông Á chi nhánh Cần Thơ nói riêng, đặc biệt là trong nghiệp vụ thẻ.

4.2.3. Hướng phát triển chung của hệ thống ngân hàng thương mại

Năm 2007, mặc dù chịu những diễn biến bất lợi từ thị trường tài chính quốc tế (khủng hoảng thị trường nhà đất và tín dụng bất động sản của Mỹ, đồng USD yếu,...) nhưng hệ thống ngân hàng Việt Nam về cơ bản vẫn phát triển an toàn, lành mạnh để đóng góp quan trọng vào thành tích tăng trưởng chung của nền kinh tế. Cụ thể:

Thứ nhất, năm 2007 là năm hệ thống các tổ chức tín dụng có tốc độ tăng trưởng rất lớn về tài sản có, dư nợ tín dụng, huy động vốn và nguồn vốn chủ sở hữu. So với GDP, tổng tài sản có đạt mức 150%, tổng dư nợ đạt 85%. So với cuối năm 2006, tính đến cuối tháng 11/2007, tổng tài sản có của hệ thống các tổ chức tín dụng tăng trưởng khoảng 44%, tổng dư nợ cho vay nền kinh tế và tổng vốn huy động tăng khoảng 41-42%, đặc biệt nguồn vốn chủ sở hữu tăng trên 50%, chủ yếu là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của các tổ chức tín dụng nhà nước tăng 57%; con số này là hơn 70% đối với các tổ chức tín dụng cổ phần. Tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ khoảng 2%. Hầu hết các tổ chức tín dụng kinh doanh có lãi, đặc biệt là khối các ngân hàng thương mại cổ phần đạt mức chênh lệch thu chi lớn.

Thứ hai, hầu hết các tổ chức tín dụng đạt tỷ lệ an toàn vốn 8%, có một số ngân hàng thương mại nhà nước đã đạt mức trên 10% do vốn tự có (chủ yếu là vốn điều lệ) của các ngân hàng tiếp tục được bổ sung mạnh trong năm 2007 (Ngân hàng thương mại Nhà nước tăng 50% và Ngân hàng thương mại cổ phần tăng 67%) (Nguồn: Đầu tư tài chính, 02/2008)

Thứ ba, năm 2007 tiếp tục chứng kiến xu hướng hợp tác cùng phát triển giữa các tổ chức tín dụng và giữa tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp thông qua thiết lập các liên minh, liên kết, đối tác chiến lược hoặc thỏa thuận hợp tác toàn diện. Các ngân hàng thương mại Việt Nam thu hút được sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Nhiều định chế tài chính lớn đã trở thành cổ đông lớn, cổ đông chiến lược hoặc đối tác chiến lược của các ngân hàng thương mại, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực quản trị, hiện đại hoá công nghệ và phát triển dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng thương mại Việt Nam.

Thứ tư, hệ thống sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiếp tục phát triển theo chiều hướng đa dạng hoá, hiện đại hoá. Các ngân hàng thương mại tập trung khai thác thị trường dịch vụ ngân hàng bán lẻ hết sức tiềm năng. Các ngân hàng thương mại tung ra thị trường nhiều dịch vụ ngân hàng hấp dẫn như tài khoản cá nhân, ATM, thẻ tín dụng, tín dụng tiêu dùng. Dịch vụ thẻ có bước phát triển về chiều rộng và chiều sâu, công nghệ thẻ chuyển sang áp dụng tiêu chuẩn EMV, nhiều dịch vụ gia tăng của thẻ thanh toán đã được triển khai. Đặc biệt tháng 11/2007, thị trường thẻ Việt Nam đã chứng kiến một sự kiện đột phá đó là việc đạt được thỏa thuận kết nối giữa hai hệ thống thẻ thanh toán lớn nhất Việt Nam (Công ty chuyển mạch tài chính Quốc gia Việt Nam Banknet Việt Nam và Công ty Smartlink) để tạo ra một hạ tầng kỹ thuật chấp nhận thẻ với 4500 máy ATM và hơn 2 vạn thiết bị đọc thẻ POS. Năm 2007, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 20/2007/CT-TTg về việc triển khai trả lương qua tài khoản là bước tích cực về mặt chính sách có tác dụng thúc đẩy dịch vụ thẻ phát triển.

4.2.4. Các đối thủ cạnh tranh

Từ năm 1993, thị trường thẻ Việt Nam mới xuất hiện những sản phẩm thẻ đầu tiên do Ngân hàng Ngoại Thương phát hành. Đến nay, chúng ta đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc của thị trường thẻ Việt Nam. Do điều kiện phát hành

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/05/2023