Phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật trong kinh doanh trên thị trường ngoại hối và điều kiện áp dụng cho Việt Nam - 13

Ngày15/5/2002, Qui định kết hối bắt buộc đối với tài khoản vãng lai của doanh nghiệp được điều chỉnh, chỉ còn kết hối 30%. Lại thêm một lần nữa, Ngân hàng Nhà nước thực hiện đúng cam kết với Quỹ tiền tệ quốc tế sẽ bỏ dần kết hối để vào năm 2003 các doanh nghiệp sẽ không còn bị bắt buộc phải bán ngoại tệ mình kiếm được cho Ngân hàng.

Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vừa đảm bảo tính tự chủ của doanh nghiệp, vừa khuyến khích họ sẵn sàng bán ngoại tệ cho NHTM để quay vòng sản xuất chứ không bắt ép bằng biện pháp kết hối? Để thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển, chính sách quản lý ngoại hối phải được đổi mới theo hướng tự do hoá, giảm việc can thiệp trực tiếp, tăng sử dụng các biện pháp kinh tế trong điều hành chính sách quản lý ngoại hối.

2.6 Hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ.

Trong số các nghiệp vụ trên thị trường ngoại hối: Giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền chọn và tương lai, mặc dù 4 nghiệp vụ đầu tiên đã xuất hiện ở Việt Nam, tuy nhiên hoạt động của nó còn rất khiêm tốn. Để thị trường ngoại hối Việt Nam hoạt động hiệu quả, góp phần tích cực vào việc phát triển kinh tế đất nước, thì việc hoàn thiện và mở rộng các nghiệp vụ kinh doanh là cần thiết.

Về nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi:

Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá kỳ hạn và hoán đổi bao gồm tỷ giá giao ngay, mức chênh lệch lãi suất giữa hai đồng tiền, và thời hạn của hợp đồng. Mục đích chính của hợp đồng kỳ hạn và hoán đổi là phòng chống rủi ro tỷ giá; như vậy, nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi chỉ có thể phát triển khi tỷ giá được thay đổi theo quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối, chính sách tỷ giá cố định trong một biên độ hẹp sẽ không tạo môi trường để phát triển các nghiệp vụ kỳ hạn và hoán đổi.

Mở rộng nghiệp vụ quyền chọn tiền tệ.

Quyền chọn là nghiệp vụ phức tạp về nội dung và nghiệp vụ, do đó, cần triển khai từng bước, từ đơn giản đến phức tạp:

- Mới chỉ xuất hiện ở nước ta vào khoảng năm 2004, nghiệp vụ quyền chọn có thể nói là còn rất mới mẻ. Trong thời gian đầu, chỉ nên tiến hành theo phương thức giao dịch qua quầy vì phương thức giao dịch trên sở giao dịch chỉ khả thi khi thị trường phát triển đạt trình độ cao

- Chỉ nên áp dụng kiểu quyền chọn Châu Âu. Vì hợp đồng quyền chọn kiểu Mỹ cho phép tiến hành thực hiện tại bất kì thời điểm nào trong suốt thời gian hiệu lực của hợp đồng nên chưa phù hợp với nước ta ở giai đoạn đầu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

- Về mặt thời hạn của hợp đồng, để có thể kiểm soát dễ dàng hơn và tránh tâm lý đầu cơ thì thời hạn của hợp đồng nên quy định ngắn từ 3 tháng trở xuống. Khi thị trường đã phát triển thì thời hạn của hợp đồng do ngân hàng và khách hàng tự thoả thuận.

Về nghiệp vụ tương lai

Phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật trong kinh doanh trên thị trường ngoại hối và điều kiện áp dụng cho Việt Nam - 13

Về ý nghĩa, giao dịch tương lai thực chất chỉ là một trò chơi cá cược, kích thích đầu cơ. Do đó, tác dụng của nó đối với nền kinh tế là hạn chế. Vì nguyên nhân này mà nghiệp vụ tương lai chưa phát triển ở Việt Nam.

2.7 Hình thành các công ty môi giới ngoại hối

Các công ty môi giới ngoại hối đóng vai trò là cầu nối giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.

Giao dịch qua công ty môi giới có ưu điểm hơn hẳn so với giao dịch trực tiếp giữa các ngân hàng ở chỗ:

Nhu cầu mua bán được truyền đi rộng khắp với tốc độ xử lý nhanh chóng

Ngân hàng có nhu cầu mua bán ngoại tệ không phải xưng danh, do đó, giữ được bí mật kinh doanh của mình

Vì vậy, cần có giải pháp khuyến khích cấp phép cho một vài công ty môi giới ngoại hối hoạt động trên thị trường ngoại hối Việt Nam trong thời gian tới.

II. Điều kiện áp dụng hiệu quả phương pháp phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật cho thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tại Việt Nam

So với thị trường ngoại hối quốc tế, thị trường ngoại hối nước ta được ví như “một cái ao nhỏ” so với “đại dương lớn”. Đến nay, sau gần 20 năm hoạt động, thị trường ngoại hối Việt Nam vẫn thuộc loại kém phát triển cả về quy mô và chiều sâu mà để phát triển nó cần có một hệ thống các giải pháp đồng bộ. Do thị trường ngoại hối còn đang trong giai đoạn hình thành như Việt Nam, việc phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật còn chưa được đề cao. Quyết định giao dịch phần lớn dựa trên nhu cầu ngắn hạn của các nhà giao dịch, để điều tiết cung cầu trước mắt mà chưa tính đến những diễn biến lâu dài của thị trường tiền tệ. Do vậy một trách nhiệm không thể thiếu để làm cho thị trường ngoại hối năng động hơn, thực hiện hiệu quả vai trò của nó hơn đó là việc công khai minh bạch các thông tin của nền kinh tế và nâng cao độ chính xác của các thông tin đó. Để làm được việc này thì cơ quan quản lí giám sát thị trường ngoại hối phải thực hiện một số công việc sau:

1. Hoàn thiện môi trường pháp lí

Thị trường ngoại hối Việt Nam đang ngày càng phát triển và hoàn thiện các cơ sở pháp lí nhằm mở rộng thành phần tham gia đồng thời cũng kiểm soát chặt chẽ để thị trường tiền tệ để giúp thị trường này phát triển tương ứng với các thị trường khác.

Năm 2004, Thống đốc Ngân hàng đã ra quyết định Về giao dịch hối đoái của các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối, quy định về các loại hình giao dịch hối đoái trong đó đã bao gồm đầy đủ các loại giao dịch phổ biến trên thị trường hối đoái quốc tế đó là giao dịch giao ngay, kỳ hạn, hoán đổi, quyền lựa chọn và các giao dịch hối đoái khác theo quy định của Thống

đốc Ngân hàng nhà nước trong từng thời kì. Trong quyết định này, các thành phần tham gia giao dịch hối đoái cũng được mở rộng cho các tổ chức và cá nhân được phép tham gia, nhưng những điều kiện để tham gia vẫn chưa được quy định cụ thể. Hơn nữa, vẫn còn một số hạn chế cần phải thay đổi để thị trường ngoại hối mang tính tự do hơn, khuyến khích giao dịch qua lại giữa các tổ chức tín dụng và các thành phần kinh tế khác tham gia vào mua bán quyền lựa chọn. Giám đốc các TCTD được phép quy định các loại ngoại tệ giao dịch tại đơn vị mình và tỷ giá giao dịch của các loại ngoại tệ phù hợp với quy định hiện hành của Ngân hàng nhà nước. Trong điều 9 của quyết định này có quy định về việc xuất trình chứng từ trong các giao dịch hối đoái, các tổ chức kinh tế, tổ chức khác và cá nhân dùng đồng Việt Nam để mua tệ của TCTD được phép qua các giao dịch giao ngay kì hạn phải xuất trình các chứng từ cung cấp đầy đủ thông tin về mục đích, số lượng và loại ngoại tệ cần thanh toán, thời điểm thanh toán theo quy định hiện hành về quản lý ngoại hối. Điều này cho thấy, để thị trường ngoại hối tự do hơn trong việc mua bán thì những quy định này cần phải được dỡ bỏ. Có thể thấy rằng lượng ngoại tệ trong thị trường liên ngân hàng vẫn chủ yếu phục vụ cho những mục đích kinh tế vĩ mô của nhà nước đó là khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, chính vì thế mà các nhu cầu mua bán ngoại tệ cho mục đích kinh doanh, tích trữ vẫn chưa được phép thực hiện. Điều này khiến cho thị trường kinh doanh ngoại tệ cho cá nhân, một số tổ chức phi ngân hàng ở Việt Nam có thể coi như chưa được phép.

Năm 2005 pháp lệnh ngoại hối của Việt Nam được thông qua. Pháp lệnh này đưa ra chính sách quản lí ngoại hối của Việt Nam nhằm tạo điều kiện thậm lợi và đảm bảo lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ngoại hối, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, nâng cao tính chuyển đổi của đồng Việt Nam, thực hiện mục tiêu trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng Việt Nam, thực

hiện cam kết của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam. Điều này cho thấy chính phủ Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể để tạo tiền đề cho một thị trường ngoại hối phát triển về sau. Những điều khoản về kinh doanh ngoại tệ cũng được quy định rất cụ thể về các nguyên tắc giao dịch vốn trong hoạt động đầu tư nhằm khuyến khích các tổ chức kinh tế nước ngoài tham gia đầu tư vào Việt Nam. Bên cạnh đó các quy định chặt chẽ và cụ thể về hoạt động vay nợ nước ngoài cũng đã được thiết lập nhằm đảm bảo tính ổn định của thị trường ngoại tệ vốn rất nhạy cảm. Đặc biệt là những quy định về thị trường ngoại tệ, cơ chế tỷ giá hối đoái ở các điều 28, 29, 30 của pháp lệnh này. Trong đó quy định thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng được phép, các đối tượng này được thực hiện các loại hình giao dịch theo thông lệ quốc tế khi đáp ứng các điều kiện do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định. Pháp lệnh này cũng nói rõ vai trò quan trọng của Ngân hàng Nhà nước trong việc điều tiết thị trường tiền tệ, thực hiện các chính sách vĩ mô phù hợp với điều kiện phát triển ở Việt Nam. Tỷ giá hối đoái lúc này cũng đã được hình thành trên cơ sở cung cầu ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng, tuy nhiên ngân hàng nhà nước vẫn thông qua việc quy định biên độ dao động tỉ giá để ngăn cản những biến động mạnh gây ảnh hưởng đến mục tiêu vĩ mô dài hạn và trấn an lòng tin của người dân vào VND. Tùy từng giai đoạn và mục tiêu phát triển kinh tế, ngân hàng nhà nước có thể thay đổi biên độ này. Ví dụ, ngày 02/01/2007NHNN ban hành quyết định sô 2554/QĐ- NHNN thay thế quyết định số 679/2003/ QĐ- NHNN về việc nới rộng biên độ tỷ giá ngoại tệ từ ±0,25% lên ±0,5% để khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, tăng tính cạnh tranh trên thị trường ngoại hối. Và trong suốt cuối năm 2009 đầu 2009 Ngân hàng Nhà

nước liên tục ra các quyết định nhằm điều chỉnh hoạt động của thị trường ngoại hối, can thiệp sâu vào những đợt biến động tỷ giá bất thường.

Thông tư 03/2008 NHNN Hướng dẫn hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối của các tổ chức tín dụng. Trong đó có quy định cụ thể về phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức ngân hàng và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và điều kiện để được phép kinh doanh ngoại hối trên thị trường trong nước và thị trường nước ngoài có đề cập đến các hình thức giao dịch ngoại hối được phép thực hiện theo thông lệ quốc tế, bên cạnh các dịch vụ thanh toán quốc tế, thực hiện giao dịch mua bán ngoại hối và vàng trên thị trường nước ngoài, các tổ chức tín dụng được phép còn có thể tham gia các thị trường tiền tệ, thị trường phái sinh ở nước ngoài. Những quy định này đã cho phép thị trường kinh doanh ngoại hối ở Việt Nam đa dạng hơn về hình thức giao dịch, tiên tiến hơn về nghiệp vụ kinh doanh và đồng thời giúp các tổ chức tín dụng học hỏi nhiều hơn trên thị trường quốc tế đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh ngoại tệ.

Tóm lại, cơ chế pháp lí của Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có những bước tiến đáng kể khuyến khích các thành viên tham gia vào sân chơi kinh doanh ngoại tệ. Tuy nhiên, trong những giai đoạn nhất định Ngân hàng Nhà nước vẫn can thiệp quá sâu vào thị trường thông qua các chính sách tài khóa làm cho thị trường này chưa phát triển lành mạnh như mong muốn. Chính vì vậy mà một yêu cầu đặt ra đối với Ngân hàng Nhà nước đó là thực hiện tốt vai trò là người mua cuối cùng trên thị trường tiền tệ, dùng các công cụ trên thị trường mở để điều tiết thị trường ngoại tệ chứ không nên phục thuộc quá nhiều vào các quy định cứng nhắc. Để làm được điều này, thị trường ngoại tệ Việt Nam cần những quy định chặt chẽ hơn trong việc kiểm soát tin đồn thất thiệt và dẫn đến chao đảo như trong thời gian vừa qua, thực thi các biện pháp chống tình trạng đô la hóa, giảm tầm quan trọng của thị

trường tự do, tập trung nguồn ngoại tệ vào thị trường chính thức để nâng cao lượng dự trữ ngoại hối để Ngân hàng Nhà nước.

2. Kiểm soát tỷ giá thị trường theo hướng phù hợp với cung-cầu ngoại tệ:

Trước hết, có thể khẳng định là tỷ giá chính thức hiện nay thấp hơn so với mức cân bằng cung cầu ngắn hạn, bởi lẽ, mặc dù biên độ giao dịch đã 2 lần được điều chỉnh song các NHTM vẫn tiếp tục giao dịch ở mức trần trong thời gian hơn 6 tháng trở lại đây. Cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá phải chịu áp lực tăng.

Trong thời gian gần đây, một số giải pháp tích cực đã được thực hiện như nghiêm cấm niêm yết bằng ngoại tệ, Ngân hàng Nhà nước tiến hành hoán đổi ngoại tệ trên phạm vi lớn hay các NHTM lớn đồng thuận hạ lãi suất huy động và cho vay bằng đồng USD.

3. Nâng cấp hệ thống thông tin

a, Về phía các cơ quan quản lí vĩ mô

Đây là một vấn đề cốt lõi để có thể ứng dụng hiệu quả phân tích cơ bản trên thị trường ngoại hối Việt Nam nói chung và thị trường kinh doanh ngoại tệ nói riêng. Yếu tố quan trọng nhất trong phân tích cơ bản là hệ thống thông tin kinh tế minh bạch chính xác. Để có được điều này các cơ quan chính phủ như Tổng cục thống kê, Tổng cục Thuế, Tổng cục hải quan, Bộ công thương, bộ tài chính cần thiết lập hệ thống thông tin phản ánh chân thực kịp thời tình hình nền kinh tế. Ở các nước phát triển như Mỹ, Nhật, Anh…ta có thể thấy hệ thống thông tin về từng lĩnh vực cụ thể như thông tin về tình trạng thất nghiệp, mức lương trung bình, số lượng nhà mới trên thị trường bất động sản, dịch vụ bán lẻ, chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá sản xuất, cán cân thương mại, kim ngạch xuất nhập khẩu…đều được công bố rõ ràng. Không những vậy mà những thời điểm công bố những báo cáo này cũng được lên kế hoạch trước để các nhà kinh doanh có thể theo dõi và cập nhật sớm nhất. Hơn thế nữa, không chỉ các tổ chức cơ quan nhà nước có thể công bố những con số này mà các

trường đại học, các cơ quan đánh giá tình hình chung cũng có thể thiết lập hệ thống chỉ số đánh giá riêng theo quan điểm của họ về tình hình nền kinh tế ví dụ như Ủy ban nghiên cứu dư luận gia đình có thể đưa ra những đánh giá riêng về chỉ số cảm tính người tiêu dùng trong tháng, nhưng trường ĐH Michigan cũng đưa ra những đánh giá này, tuy nhiên hai hệ thống đánh giá này thực hiện trên những tiêu chuẩn khác nhau và các nhà giao dịch sử dụng những thông tin này cũng có cách hiểu khác nhau dựa trên từng chỉ số. Chính sự đa dạng thông tin này đã giúp cho hệ thống thông tin minh bạch hơn, chính xác và cụ thể hơn.

b, Về phía các nhà giao dịch

Việc nâng cấp hệ thống thông tin cá nhân là một việc rất quan trọng để có thể cập nhật thông tin chính xác và kịp thời. Nó mang tính quyết định đến mức lợi nhuận đạt được của nhà giao dịch do, trên những thị trường nhạy cảm như thị trường ngoại hối việc quyết định thực hiện lệnh mua bán vào thời điểm hợp lí là rất quan trọng, nếu chậm trễ thị nhà giao dịch sẽ lỡ mất cơ hội kinh doanh và tổn thất là vô cùng lớn. Trong thông tư 03/2008/TT-NHNN ngày 11 tháng 4 năm 2008, Ngân hàng nhà nước cũng đã quy định điều kiện về trang thiết bị, vật chất để có thể tham gia vào thị trường ngoại hối của các tổ chức được phép. Hơn nữa đây cũng là quyền lợi của chính các nhà giao dịch để có thể cập nhật thông tin nhanh nhất.

Về phân tích kĩ thuật, các phần mền hiện đại đang thịnh hành trên thế giới giúp ta có thể ứng dụng công cụ phân tích kĩ thuật hiệu quả nhất. Nó có nhiều tiện ích, cách thể hiện sinh động dễ nhìn và thực hiện các kĩ thuật một cách chính xác giúp ta có thể quan sát và đưa ra những nhận định đúng đắn về diễn biến trên thị trường ngoại hối.

4. Đầu tư phát triển con người

Đội ngũ nguồn nhân lực trong các phòng ban kinh doanh ngoại hối ở các ngân hàng, các định chế tài chính khác đã được nâng cao về trình độ chuyên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/05/2022