75
Lạng Sơn có hệ thống sông suối đa dạng gồm 7 hệ thống sông chính chi phối nguồn nước mặt của tỉnh: sông Kỳ Cùng, sông Thương, sông Trung, sông Hoá, sông Bắc Giang, sông Bắc Khê, sông Lục Nam. Trong đó sông Kỳ Cùng lớn nhất.
Hệ thống sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ vùng núi Bắc Xa cao 1.166m, sông chảy theo hướng đông nam - tây bắc qua Lộc Bình, Tp. Lạng Sơn, Na Sầm và đến Thất Khê sông uốn khúc và chuyển hướng tây bắc - đông nam qua biên giới đổ vào đất Trung Quốc.
Hệ thống sông Kỳ Cùng có 78 phụ lưu với 26 phụ lưu cấp I, 34 phụ lưu cấp II và 16 phụ lưu cấp III, 1 phụ lưu cấp IV. Các sông nhánh lớn hơn cả là sông Bắc Giang, Bắc Khê và Bản Thín.
Dòng chảy năm trung bình nhiều năm trên sông Kỳ Cùng tại Lạng Sơn với diện tích lưu vực F = 1560km2 đạt 30,2m3/s tương ứng với mô đun dòng chảy dòng chảy là 39,4 l/s/km2 và tổng lượng dòng chảy 2,1 tỷ m3. Nếu tính cho lưu vực sông Kỳ Cùng trên lãnh thổ tỉnh tính đến cửa ra tại biên giới Việt Trung (Flv = 6531km2), thì lưu lượng dòng chảy là 122m3/s tương ứng với mô đun dòng chảy là 18,7 l/s/km2 và tổng lượng dòng chảy năm là 3,85 tỷ m3.
Hệ thống sông Thương (tính đến trước nhập lưu với sông Trung) có diện tích lưu vực 960km2, lưu vực sông Trung tính đến trước nhập lưu với sông Thương có diện tích lưu vực 1.270km2, sông Hoá diện tích lưu vực Flv = 382km2, sông Bắc Giang diện tích lưu vực 2.670km2 là phụ lưu lớn nhất của sông Kỳ Cùng, sông Bắc Khê diện tích lưu vực 801km2 là phụ lưu lớn thứ hai của sông Kỳ Cùng, lưu vực sông Lục Nam thuộc Lạng Sơn có diện tích lưu vực 612km2.
Ngoài ra có một số đoạn sông ngắn thuộc Lạng Sơn chảy về Quảng Ninh như các sông Phố Cũ và Đồng Quy với tổng diện tích lưu vực 270km2 với lượng mưa năm trung bình là 1.750mm, lưu lượng bình quân năm là 5,823 tỷ m3/s với mô đun dòng chảy là 26,7 l/s/km2 và tổng lượng dòng chảy 0,227 tỷ m3.
Nhỏ nhất với mô đun dòng chảy là từ 14-27 l/s km2 sông Bắc Khê nằm trong vùng khuất gió, cùng với các sông nhánh thuộc hạ lưu sông Kỳ Cùng, có mô đun dòng chảy nhỏ, chỉ đạt 14-17 l/s/km2. Các sông nhánh vùng trung lưu sông Kỳ Cùng có mô đun dòng chảy lớn hơn đạt 18-19 l/s/km2, vùng thượng lưu sông Kỳ Cùng là khoảng 20 l/s/km2. Trong khi đó, lớn nhất là các sông suối nhỏ chảy về Quảng Ninh với mô đun dòng chảy khoảng 27 l/s/km2.
Sự phân bậc về dòng chảy trung bình nhiều năm khá lớn, hệ số biến sai Cv dòng chảy năm đạt 0,38 ở trạm Lạng Sơn, năm nhiều nước gấp 5,7 lần năm ít nước.
Năm 1998 - 1999, lưu lượng năm chỉ đạt 10,5m3/s tương ứng với mô số 6,73 l/s/km2. Năm 2008-2009, dòng chảy năm đạt 59,9m3/s tương ứng với mô đun dòng chảy là 38,4 l/s/km2. Dòng chảy năm với tần suất 75% là 22,0m3/s tương ứng với tổng lượng 0,697 tỷ m3 nước (tại trạm Lạng Sơn).
Trong năm, dòng chảy phân bố không đều. Mùa lũ trên các lưu vực sông thuộc tỉnh Lạng Sơn kéo dài từ tháng VI tới tháng IX, lưu lượng mùa lũ chiếm 70 75%; lưu lượng mùa kiệt chiếm 25 30 % lưu lượng nước cả năm. Lượng nước nhỏ nhất xảy ra vào thời kỳ tháng I-III.
Trên địa bàn tỉnh có 271 hồ nước phân bố đồng đều tại các huyện, thành phố là nguồn nước dự trữ cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và phục vụ đời sống nhân dân. Ngòa ra còn có hệ thống 639 đập dâng các loại ở vùng núi theo các hệ thống sông suối phụ lưu và suối nhỏ.
Như vậy, tổng lượng nước trên địa bàn tỉnh không đồng nhất về số liệu tính toán, tổng lưu lượng dòng chảy mặt vào khoảng 6,09 tỷ m3/năm, nhưng phân bố không đều theo thời gian và không gian. Tổng lượng nước mặt trung bình năm nhiều năm (1961 - 2013) là 6,06 tỷ m3, trong đó lượng nước nội sinh là 4,98 tỷ m3; lượng nước từ ngoài tỉnh chảy vào là 1,08 tỷ m3. Tổng lượng nước đến trên từng tiểu vùng thuộc địa bàn tỉnh Lạng Sơn ứng với các tần suất nước đến 25%, 85% và 95% lần lượt là 6,0 tỷ m3; 2,9 tỷ m3 và 2,1 tỷ m3. Trữ lượng nước ngầm của tỉnh vào loại thấp so với cả nước với tổng trữ lượng nước ngầm đạt khoảng 764 triệu m3 [65,66,67].
2.4. Sự phân bậc trong nền vật chất hữu cơ
2.4.1. Sự phân bậc trong lớp phủ phong hóa - thổ nhưỡng
Theo kết quả điều tra của Viện QH&TKNN, tổng hợp diện tích các loại đất từ bản đồ đất theo nguồn gốc phát sinh cho thấy, với địa hình chủ yếu là đồi, núi thấp, độ cao trung bình là 252m so với mực nước biển, đất Lạng Sơn được chia thành 4 nhóm đất chính với 12 loại đất.
Lạng Sơn chủ yếu là đồi núi với địa hình karst đặc trưng vì là một tỉnh miền núi phía Đông Bắc. Đất Lạng Sơn có nguồn gốc phát sinh trên các nền đá mẹ gồm đá sa thạch, đá vôi, phiến thạch sét, cuội kết và dăm kết. Đất đồi núi hình thành do phong hóa đá mẹ tại chỗ, từ các loại đá khác nhau. Bên cạnh đó còn có đất phù sa sông suối, đất lúa nước vùng đồi núi (đất nhân tác). Đất có độ dốc <50 chiếm 14,25%, đất có độ dốc <5 - 80 chiếm 5,74%, đất có độ dốc <8 - 150 chiếm 6,77%, đất có độ dốc <15 -
250 chiếm 41,54%, đất có độ dốc >250 chiếm 31,70% diện tích tự nhiên [68,69,70].
a) Nhóm đất phù sa:
Nhóm đất phù sa có diện tích 11.802ha chiếm 1,42 % tổng diện tích tự nhiên, gồm 5 đơn vị đất:
- Đất phù sa được bồi trung tính ít chua: 2922ha chiếm 0,35% tổng diện tích tự nhiên, phân bố tập trung chủ yếu ven sông Kỳ Cùng thuộc các huyện Tràng Định, Cao Lộc, được hình thành do sự bồi đắp một lượng phù sa mới hàng năm, tùy điều kiện địa hình và tốc độ dòng chảy lượng phù sa mới được bồi thêm dày hoặc mỏng, hình thái phẫu diện tầng mặt có màu nâu nhạt, các tầng dưới nâu thẫm, phân lớp khá rõ theo thành phần cơ giới.
- Đất phù sa được bồi chua: 3417ha chiếm 0,41% tổng diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở các huyện Hữu Lũng, Chi Lăng, Lộc Bình và một số huyện khác, hình thành do sự bồi đắp của sông Thương và sông Kỳ Cùng nhưng do ở bậc thềm cao hơn nên chỉ những năm nước lớn mới được bồi đắp. Do ở bậc thềm cao nên đất đã bị tác động của quá trình rửa trôi khá mạnh làm cho đất bị chua, phẫu diện đã phân hoá khá rõ, đã xuất hiện tầng glây yếu hoặc có kết von sắt mangan non rải rác, thành phần cơ giới thường là thịt trung bình.
- Đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng: 1567ha chiếm 0,19 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố nhiều ở huyện Tràng Định và một ít ở một số huyện khác, cũng có nguồn gốc hình thành như các loại đất cùng nhóm nhưng do phân bố ở các địa hình cao, có chế độ nước không đều trong năm, mùa mưa cũng bị ngập nhưng mùa khô đất bị thiếu nước nghiêm trọng. Vì vậy, trong đất xảy ra 2 quá trình khử và quá trình ôxy hóa tương ứng với 2 mùa, kết quả sự hoạt động của 2 quá trình này dẫn đến sự tích tụ sắt ở dạng hợp chất hóa trị cao có màu đỏ vàng trong phẫu diện, hình thành tầng loang lổ đỏ vàng, tầng đất mặt trong phẫu diện bị rửa trôi nên thành phần cơ giới thường nhẹ, đất chua, độ no bazơ thấp.
- Đất phù sa phủ trên nền đỏ vàng: 474ha chiếm 0,06 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở xã Quyết Thắng huyện Hữu Lũng và một vài nơi khác, được hình thành do sự bồi tụ phù sa sông nhưng do dòng sông chảy qua sát các chân núi nên tầng trên là đất phù sa các tầng dưới vẫn là đất tại chỗ, thông thường lớp phủ phù sa dày khoảng 40 - 50cm, càng gần sát chân núi lớp phủ càng mỏng hơn.
- Đất phù sa ngòi suối: 3422ha chiếm 0,41 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố ở các huyện trong tỉnh, thường là các dải đất hẹp ven suối, hình thành do lắng đọng của phù sa suối, khác với đất phù sa sông, suối, thành phần cơ giới thô, nhẹ lẫn nhiều khoáng vật bền vững như thạch anh, mica trắng... đôi khi có lẫn cả mảnh đá nhỏ.
b) Nhóm đất đỏ vàng:
Diện tích 723.502ha, 87,11% tổng diện tích tự nhiên, gồm 7 đơn vị đất:
- Đất nâu đỏ trên đá macma bazơ và trung tính: 12.882ha chiếm 1,55% tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở xung quanh Tp. Lạng Sơn và huyện Cao Lộc, được hình thành và phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá gabro và andezit, tầng đất dày độ dốc thường từ 3 - 15°.
- Đất đỏ nâu trên đá vôi: 15.295ha chiếm 1,84 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các huyện Bắc Sơn, Chi Lăng và Hữu Lũng, được hình thành và phát triển trên sản phong hóa của đá vôi. Hình thái phẫu diện có màu nâu đỏ là chủ đạo, lớp đất mặt thường có màu nâu hoặc xám nâu, cấu trúc đất khá tốt thường là viên hạt hoặc cục nhỏ, đất tơi xốp, độ dày tầng đất mịn dàyhay mỏng phụ thuộc và địa hình, mức độ phong hóa của đá mẹ và thảm thực vật che phủ, đất thường có thành phần cơ giới nặng, thấm nước rất nhanh.
- Đất đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất: 422.420ha chiếm 50,86% tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh, phân bố ở hấu khắp các huyện trong tỉnh, hình thành và phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá sét và đá biến chất. Đất thường có tầng dày, thành phần cơ giới nặng, kết cấu hạt, hình thái phẫu diện có màu đỏ vàng đặc trưng, trong phẫu diện có tầng tích sét với khả năng trao đổi cation dưới 24meq/100g sét và độ no bazơ dưới 50%.
- Đất vàng đỏ trên đá macma axit: 124.528ha chiếm 14,99% tổng diện tích tự nhiên, phân bố chủ yếu ở các huyện Tràng Định, Văn Lãng, Bình Gia, Chi Lăng và một số huyện khác. Đơn vị đất này được hình thành và phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá macma axit trên các đồi núi cao độ dốc tương đối lớn, lớp phủ thực vật chủ yếu là rừng thứ sinh cây bụi hoặc rừng nghèo, phần lớn có thành phần cơ giới nhẹ (từ cát pha đến thịt nhẹ), tỷ lệ sét vật lý thấp, chứa nhiều khoáng vật bền vững như thạch anh.
- Đất vàng nhạt trên đá cát: 121.403ha chiếm 14,62 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố nhiều ở huyện Lộc Bình, Đình Lập, Tràng Định, Hữu Lũng và một số huyện khác trong tỉnh, hình thành và phát triển trên sản phẩm phong hóa của đá cát kết phân bố ở vùng núi độ dốc lớn, độ dốc thường trên 25°.
- Đất nâu vàng trên phù sa cổ: 6901ha chiếm 0,83 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố nhiều ở huyện Lộc Bình và một vài huyện khác của tỉnh ở các bậc thềm cao tiếp giáp với vùng đồng bằng phù sa mới ven sông Kỳ Cùng và sông Thương. Đây là sản phẩm lắng đọng của phù sa do biến động địa chất từ kỷ Đệ Tứ được nâng lên
thành dạng địa hình đồi lượn sóng, chịu tác động của quá trình feralit hoá, đất có màu nâu vàng là chủ đạo, ở một vài nơi phẫu diện đã xuất hiện kết von sắt.
- Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước: 20.073ha chiếm 2,42% tổng diện tích tự nhiên, phân bố trên các sườn thấp trong các thung lũng thuộc hầu hết các huyện thị trong tỉnh, được hình thành tại chỗ do sản phẩm phong hóa của các loại đá mẹ khác nhau nhưng được dân các địa phương cải tạo thành những chân ruộng bậc thang để cấy lúa nước…
c) Nhóm đất mùn vàng đỏ trên núi:
Diện tích 3523ha chiếm 0,42% tổng diện tích tự nhiên được hình thành trên sản phẩm phong hóa của 3 nhóm đá macma, đá biến chất và đá trầm tích, phân bố ở độ cao từ 900m trở lên. Trong toàn tỉnh có 3 đơn vị dưới nhóm dựa vào nguồn gốc đá mẹ:
- Đất mùn đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất: diện tích 383ha, phân bố ở các huyện Lộc Bình, Cao Lộc.
- Đất mùn vàng đỏ trên macma axit: diện tích 127ha, phân bố chủ yếu ở huyện Bắc Sơn.
- Đất mùn vàng nhạt trên đá cát kết: diện tích 2495ha, phân bố ở các huyện Tràng Định, Đình Lập. Do phân bố ở địa hình dốc đi lại khó khăn nên phần lớn còn rừng, với đất này cần đặc biệt chú trọng bảo vệ rừng, bên cạnh đó cũng cần lựa chọn một số diện tích có độ dốc <15°, tầng dày để phát triển một số loại rau hoặc rau giống, cây ăn quả ôn đới, cây dược liệu.
d) Nhóm đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ:
Diện tích 16.854ha chiếm 2,03 % tổng diện tích tự nhiên, phân bố tập trung ở các huyện Tràng Định, Bắc Sơn, Lộc Bình, Hữu Lũng và các huyện khác. Do hình thành ở địa hình thấp, trũng hoặc thung lũng kín khó thoát nước, là nơi hứng và tích đọng các sản phẩm được nước mưa cuốn trôi từ các vùng đồi núi xung quanh xuống nên tính chất lý hóa học của đất phụ thuộc vào tính chất đá mẹ, mẫu chất tạo ra đất. Do ẩm ướt hoặc ngập nước thường xuyên nên quá trình glây diễn ra mạnh ở tầng đất 0 - 50 cm hoặc trên toàn phẫu diện.
e) Núi đá:
Chủ yếu là đá vôi có tuổi C-P, tập trung chủ yếu ở các huyện Bắc Sơn, Chi Lăng, Hữu Lũng, Bình Gia. Trên sản phẩm bồi tụ cacbonat của núi đá thường có đất đen, hình thành dưới các chân dãy núi đá vôi với địa hình thung lũng hẹp. Các sản
phẩm phong hoá của đá vôi do tác động của nước được bồi tụ thành những dải đất trong thung lũng khá bằng phẳng.
Bảng 2.4. Diện tích hiện trạng, cơ cấu sử dụng các loại đất cuối kỳ tỉnh Lạng Sơn năm 2020
Chỉ tiêu sử dụng đất | Hiện trạng SD đất (tính đến 31/12/2020) | KHSD đất (NQ 42-CP) | ||
Diện tích (ha) | Cơ cấu (%) | Diện tích (ha) | ||
I | Tổng diện tích tự nhiên | 831.009 | 100,00 | |
1 | Đất nông nghiệp | 687.152 | 82,69 | 725.704 |
1.1 | Đất sản xuất nông nghiệp | 110.850 | 13,34 | |
1.1.1 | Đất trồng cây hàng năm | 83.838 | 10,09 | |
Đất trồng lúa | 43.895 | 5,28 | 40.680 | |
Đất trồng cây hàng năm khác | 39.943 | 4,81 | 36.758 | |
1.1.2 | Đất trồng cây lâu năm | 27.012 | 50.522 | |
1.2 | Đất lâm nghiệp có rừng | 574.229 | 69,10 | 595.909 |
Rừng sản xuất | 448.259 | 53,94 | 452.861 | |
Rừng phòng hộ | 117.671 | 14,16 | 122.661 | |
Rừng đặc dụng | 8.299 | 1,00 | 20.387 | |
1.3 | Đất nuôi trồng thủy sản | 1.853 | 0,22 | 1.500 |
1.4 | Đất nông nghiệp khác | 220 | 0,03 | |
2 | Đất phi nông nghiệp | 49.419 | 5,95 | 59.437 |
2.1 | Đất ở | 8.225 | 0,99 | 8.958 |
2.1.1 | Đất ở đô thị | 1.012 | 0,12 | 1.374 |
2.1.2 | Đất ở nông thôn | 7.213 | 0,87 | 7.584 |
2.2 | Đất chuyên dụng | 29.503 | 3,55 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các Chỉ Số Độ Đo Sử Dụng Để Phân Tích Cảnh Quan Tỉnh Lạng Sơn
- Nhóm Yếu Tố Cấu Trúc Và Niên Đại Địa Chất Tỉnh Lạng Sơn
- Thống Kê Diện Tích Phân Bố Các Cấp Độ Cao Trên Địa Bàn Tỉnh Lạng Sơn
- Đặc Điểm Phân Bậc Trong Đa Dạng Sinh Học Tỉnh Lạng Sơn
- Phân Bố Của Đồng Bào Dtts Trên Địa Bàn Tỉnh Lạng Sơn
- Phân tích cấu trúc đa bậc cảnh quan tỉnh Lạng Sơn - 14
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
Đất trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp | 1.056 | 0,13 | 182 | |
2.2.2 | Đất quốc phòng, an ninh | 11.076 | 1,33 | 13.762 |
2.2.3 | Đất sản xuất, kinh doanh phi NN | 999 | 0,12 | 748 |
2.2.4 | Đất có mục đích công cộng | 16.372 | 1,97 | 20.425 |
2.3 | Đất tôn giáo, tín ngưỡng | 101 | 0,01 | 8 |
2.4 | Đất nghĩa trang, nghĩa địa | 562 | 0,07 | 926 |
2.5 | Đất sông suối và mặt nước chuyên dùng | 10.991 | 1,32 | |
2.6 | Đất phi NN khác | 37 | 0,004 | |
3 | Đất chưa sử dụng | 94.438 | 11,36 | 45.868 |
3.1 | Đất bằng chưa sử dụng | 1.860 | 0,22 | |
3.2 | Đất đồi núi chưa sử dụng | 24.441 | 2,94 | |
3.3 | Núi đá không có rừng cây | 68.137 | 8,20 |
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Lạng Sơn) Tích hợp giữa hiện trạng, kế hoạch sử dụng đất với tài nguyên địa hình thấy: Diện tích cây hàng năm: 83.838 ha (theo thực trạng sử dụng năm 2019 và
77.438 ha (theo NQ42-CP) vượt xa diện tích đất bằng dưới 100m: 46.284 ha hay đất
thấp có độ dốc phù hợp với canh tác nông nghiệp (0 - 9,20) là 124.248 ha hay có độ phân cắt sâu thích hợp với nền sản xuất hiện đại có máy móc và công nghệ nông nghiệp cao (0 - 89m/km2) là 45.943 ha. Điều này chứng minh cho nhận định nền sản xuất nông nghiệp của Lạng Sơn đã phải sử dụng thêm vào quỹ đất đồi có độ cao từ 100 - 250m, cùng với một phần quỹ đất có độ dốc cao hơn, đến khoảng 200; đặc biệt là sử dụng vào diện tích đất có độ phân cắt sâu từ 89 - 181m/km2 cần thiết phải bổ sung các biện pháp canh tác hợp lý và bảo vệ đất dốc chống xói mòn, rửa trôi.
Do đó, cần có sự bố trí hợp lý quỹ đất sản xuất tương ứng với các điều kiện phù hợp của tài nguyên địa hình. Tiếp theo, nếu phát triển các hướng sản xuất nông nghiệp và bố trí quỹ đất phát triển kinh tế, xã hội cần ưu tiên sử dụng các loại quỹ đất bằng chưa sử dụng và quỹ đất đồi có độ dốc thấp, độ chia cắt vừa phải trên địa hình có độ cao >250m; độ dốc từ 20-250 và độ chia cắt sâu vừa phải <181m/km2.
2.4.2. Sự phân bậc trong lớp phủ thực vật
Đối với sự thành tạo cảnh quan, giới sinh vật được đề cập và có ý nghĩa nhất là lớp phủ thực vật. Sự phân hóa của lớp phủ thực vật là kết quả tổng hòa của các yếu tố hình thành nên cảnh quan của lãnh thổ. Lớp phủ thực vật cũng là một trong những yếu tố hình thành nên tính đa dạng của cảnh quan, đồng thời là bộ mặt phản ánh tính đa dạng cảnh quan lãnh thổ. Lạng Sơn có 8 loại lớp phủ thực vật chính phân theo nguồn gốc phát sinh: rừng thường xanh, rừng thứ sinh, rừng hỗn giao, rừng trồng, các quần xã cây trồng lâu năm, các quần xã cây trồng hàng năm, trảng cỏ cây bụi, núi đá đất trống.
- Rừng thường xanh: chiếm phần lớn diện tích rừng đặc dụng, phát triển chủ yếu trên nền đất feralit đỏ vàng trên đá macma axit và đá biến chất, cấu trúc rừng nhiều tầng tán. Các thành phần loài chính là nghiến, trai, đinh, chò chỉ, mạy tèo, ô rô... nổi bật là ưu hợp nghiến - ô rô, đặc biệt là loài hoàng đàn.
- Rừng thứ sinh: phân bố rải rác, đa loài cây tạp, chủ yếu là rừng phục hồi (sau khai thác và sau nương rẫy) do sự tác động của con người vào thảm thực vật tự nhiên đã hình thành nên nhiều đơn vị rừng có hình thái, cấu trúc rất khác nhau.. Thành phần có sự góp mặt của các ưu hợp tre, nứa phổ biến là kiểu rừng tre nứa thuần loại, rừng thưa trên núi đá...
- Rừng hỗn giao: chiếm diện tích nhỏ, là một kiểu rừng thứ sinh phân bố rải rác trên lãnh thổ, chủ yếu là rừng hỗn giao gỗ và tre nứa.
- Rừng trồng: chiếm diện tích khá lớn đất có rừng của tỉnh. Thành phần loài chủ yếu là bạch đàn, keo lai, thông mã vỹ, hồi,… Thường phân bố trên vùng núi thấp, vùng đồi và đồng bằng cao. Cấu trúc rừng đơn giản với một tầng cây gỗ và tầng cây bụi, cỏ bên dưới.
- Các quần xã cây trồng lâu năm:
+ Vùng cây công nghiệp dài ngày và các loại cây ăn quả đặc sản phân bố chủ yếu ở các huyện Hữu Lũng, Chi Lăng, Bắc Sơn, Cao Lộc, Văn Quan;
+ Vùng lâm nghiệp: các khu vực có địa hình núi thấp, diện tích rừng lớn, tập trung ở các huyện: Bắc Sơn, Lộc Bình, Văn Lãng, Bình Gia và Tràng Định.
- Các quần xã cây trồng hàng năm:
+ Khu vực tập trung các loài cây lương thực, ngũ cốc (lúa, ngô, khoai, sắn…): các cánh đồng huyện Tràng Định, Bình Gia, Bắc Sơn, Văn Quan, Cao Lộc;