Giám đốc hoặc những người tham gia quản lý công ty hoặc những người thực hiện các công việc trên như là công việc chuyên môn thì không được quy định theo phần giải thích này.
Khái niệm nêu trên của DIP Guidelines chỉ xoay quanh vai trò kiểm soát của sáng lập viên với công ty nhưng nội dung cũng chưa rò ràng. Bởi vậy, Luật về Mua lại công ty năm 1997 đã định nghĩa thuật ngữ control - kiểm soát này như sau:
“Kiểm soát bao gồm quyền bổ nhiệm các chức danh giám đốc hoặc quyền kiểm soát việc quản lý hoặc kiểm soát các quyết định có thể thực hiện được bởi một hoặc một số người hành động độc lập hoặc theo nhóm, trực tiếp hoặc gián tiếp, nhờ việc nắm giữ cổ phần hoặc nhờ quyền quản lý hoặc nhờ các thoả thuận mua cổ phần hoặc các thoả thuận bỏ phiếu hoặc bất kỳ hành vi nào khác.”
Tuy vậy các văn bản này cũng không phản ánh hết được nội hàm của khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần mà chỉ đưa ra định nghĩa theo mục đích của văn bản chứ không phải theo mục đích chung của việc sử dụng thuật ngữ.
* Khái niệm từ án lệ: Trong khi các luật thành văn chưa định nghĩa một cách đầy đủ về sáng lập viên công ty cổ phần thì các phán quyết của toà án trong các vụ kiện liên quan đến các công ty tại Anh đã làm sáng tỏ hơn khái niệm về chủ thể này.
Trong vụ kiện Twycross v. Grant - 1877, toà án tuyên bố “promoter là người chịu trách nhiệm tạo ra một công ty liên quan tới một dự án cụ thể và làm cho nó diễn ra và là người thực hiện những bước cần thiết để hoàn thiện dự án”.[2,7]
Vụ kiện Twycross v. Grant - 1877: Vụ kiện xoay quanh những khiếu kiện về hành vi lừa đảo của Albert Grant, người được coi là sáng lập viên
công ty cổ phần đầu tiên được biết đến trong các án lệ liên quan đến sáng lập viên công ty cổ phần. Grant là người đầu tư vào bất kỳ hoạt động nào mà ông ta cho rằng có thể sinh lời. Sau nhiều năm đầu tư thành lập các công ty, Grant bị phá sản vào năm 1877 và từ đó ông rút khỏi thương trường. Cũng vào năm này nhiều vụ kiện dân sự chống lại Grant đã diễn ra liên quan đến công ty Lisbon Tramways Company được thành lập vào năm 1871. Vụ kiện đầu tiên được xét xử là vụ kiện của nguyên đơn James Twycross căn cứ theo điều 38 của Luật công ty năm 1867 do Grant đã không công khai trong bản cáo bạch của công ty những hợp đồng có thực - thực tế là một hợp đồng bí mật giữa Grant và công ty xây dựng đường sắt để trả cho Grant 45.000 bảng Anh. Khoản tiền đó là tiền bồi dưỡng cho Grant như một người góp phần thành lập nên công ty, và một khoản tiền mà các nhà đầu tư tin rằng được đầu tư cho đất đai, máy móc hay nhân công đã vào túi của Grant. Toà án đã xử thắng kiện cho Twycross và phán quyết rằng các sáng lập viên công ty cổ phần phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về các thông tin trong bản cáo bạch và phải công bố tất cả các hợp đồng ảnh hưởng đến công ty mới một cách đáng kể, nghiêm trọng.[5]
Toà án xét xử vụ kiện Whaley Bridge Calico Printing Co v. Green -1879 đã tuyên bố: “Promoter là một thuật ngữ của kinh doanh, không phải của luật, dùng để chỉ một nhóm các hoạt động liên quan tới thế giới kinh doanh mà nhờ đó công ty được ra đời”.[2,7]
Vụ kiện Whaley Bridge Calico Printing Co v. Green - 1879: Robert E. Green là chủ sở hữu một số các sản phẩm vải in hoa mà anh ta đã mua với giá 15.000 bảng. Một thời gian ngắn sau khi mua, anh ta dự định bán số hàng này cho người quản lý của anh ta, John Smith với giá 20.000 bảng bằng một hợp đồng mà toà án đã xác minh được là hợp đồng giả
Có thể bạn quan tâm!
- Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 1
- Một Số Đặc Trưng Của Sáng Lập Viên Công Ty Cổ Phần
- Phân Biệt Với Khái Niệm Cổ Đông Sáng Lập Trong Các Đạo Luật Về Công Ty
- Các Quyền Và Nghĩa Vụ Cơ Bản Của Sáng Lập Viên Công Ty Cổ Phần
Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.
mạo, và được dự định sẽ sử dụng để thoả thuận với một công ty cổ phần được thành lập sau đó để mua lại số hàng trên. Đây là thoả thuận bí mật giữa Green và Smith, và theo dự kiến Green sẽ trả cho Smith 3.000 bảng từ số tiền mua tài sản của công ty Công ty nguyên đơn được thành lập sau đó bởi Green và Smith và số hàng được chuyển nhượng cho công ty với giá 20.000 bảng. Ban giám đốc công ty đã chấp thuận đề nghị của họ, và để việc mua bán diễn ra xuôn xẻ, một hợp đồng giả mạo đã được lập trước ban giám đốc như một hợp đồng thật bởi cả Green và Smith. Smith đã được quyền thoả thuận với Green rằng anh ta sẽ đền đáp cho Green 3.000 bảng từ số tiền bán số hàng, bởi thoả thuận giả mạo đã được lập với sự hiểu biết và đồng thuận của công ty; nhưng công ty có quyền rò ràng coi tất cả lợi nhuận mà Smith thu được từ việc mua bán là lợi nhuận của công ty. Vụ kiện đã được xử theo hướng đó và công ty nguyên đơn được trả lại 5.000 bảng, khoản tiền chênh lệch cho số hàng của Green.[6]
“Thuật ngữ promoter liên quan tới suy nghĩ về việc nỗ lực nhằm mục đích tạo lập và bắt đầu một công ty (hay còn được gọi là khởi sự một công ty) và cũng là ý nghĩ về một số nghĩa vụ đối với công ty được áp dụng hoặc phát sinh từ vị trí mà một người được gọi là promoter đảm nhận” - Phán quyết trong vụ kiện Emma Silver Mining Co. v. Lewis & son -1879.[2]
Những định nghĩa nêu trên tập trung vào việc một người đã làm trước khi anh ta có thể được gọi là một promoter. Theo đó, sáng lập viên công ty cổ phần sẽ là người chịu trách nhiệm thực hiện một phần hoặc toàn bộ những công việc sau: Tổ chức để đi tới thành lập nên công ty; đăng ký thành lập công ty; và tổ chức công ty ngay sau khi việc đăng ký hoàn thành. Khái niệm này về sau được mở rộng hơn bao gồm cả những người trực tiếp tham gia vào
hoạt động của công ty sau thành lập như trở thành cổ đông của công ty hoặc tham gia vào bộ máy quản lý của công ty cổ phần mới.
Một số phán quyết khác của tòa án trong các vụ kiện thường được trích dẫn để giải thích nội hàm khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần có thể kể đến như tuyên bố của thẩm phán Pitney trong vụ kiện Bigelow & Old Dominian Copper Mining & Smelting Co (1912): “Một sáng lập viên công ty cổ phần người theo đuổi cơ hội để thực hiện các hoạt động mua bán có lợi và đầu tư sinh lời trong kinh doanh hoặc với các công ty khác, đem lại lợi ích cho một số người khi dự án được thực hiện, tổ chức chúng trong một công ty nhằm mục đích nắm bắt lấy dự án, và tham dự vào công ty mới thành lập cho đến khi nó được triển khai kinh doanh. Anh ta có thể là cổ đông, giám đốc, người quản lý của công ty hoặc không ai trong số đó. Các dịch vụ của anh ta bắt đầu từ trước khi công ty được thành lập và thường không chấm dứt cho đến khi công ty được hình thành.”[7]
Phán quyết của Tòa tối cao bang Massachusetts trong phiên xử sau của vụ kiện này lại chỉ ra: “các sáng lập viên (promoters) bao gồm những người chịu trách nhiệm tạo ra một công ty cổ phần và đem lại cho nó các quyền, phương tiện và vốn mà nhờ đó nó thực hiện được mục đích quy định trong điều lệ công ty, và để tạo lập cho nó đầy đủ khả năng để kinh doanh. Công việc của họ có thể bắt đầu khá lâu trước khi có tổ chức công ty, nhằm mở ra một công ty (venture) và dự kiến một kế hoạch cho sự phát triển của nó, và có thể tiếp tục sau khi thành lập xong công ty bằng việc thu hút đầu từ vốn trên thị trường chứng khoán và tạo cho công ty hơi thở kinh doanh.”[2]
Thuật ngữ “promoter” cũng được định nghĩa là “một người bằng nỗ lực của mình hợp tác trong việc đem đến sự thành lập một công ty và đăng ký mua cổ phần của công ty. …. Thuật ngữ này không có ý nghĩa pháp lý thực tế và áp dụng cho bất kỳ người nào tham gia vào hoạt động giới thiệu thành lập
công ty, cho dù anh ta có mong muốn ràng buộc với công ty hay không” (Theo quan điểm của luật gia Victor Morazets trong cuốn Morawetz on Corporations, tập 2, được trích dẫn trong vụ kiện Ex-Mission L. & W. Co. v. Flash - 1893).[7]
Một định nghĩa khác về sáng lập viên công ty cổ phần cũng thường được nhắc đến đó là theo quan điểm của phán quyết trong vụ kiện Dickerman v. Northern Trust Co - 1900, đã định nghĩa một sáng lập viên công ty cổ phần là một người đem lại sự thành lập một công ty và tổ chức của một công ty cổ phần. Anh ta đem nhiều người đến với nhau, những người mà anh ta làm họ trở nên thích thú với công ty, cho việc đăng ký tham gia công ty và xúc tiến sự vận hành đi tới thành lập một công ty cổ phần.”[7]
* Nhóm sáng lập viên công ty cổ phần: Một công ty cổ phần có thể có nhiều hơn một sáng lập viên công ty cổ phần. Các sáng lập viên công ty cổ phần có thể liên hệ lẫn nhau liên quan đến việc phân chia cổ phần, hoa hồng và các vấn đề pháp lý khác.
Một số tòa án phán quyết rằng các sáng lập viên công ty cổ phần là các thành viên trong một công ty hợp danh (Án lệ các vụ kiện Malisewski v. Singer – 1979, Refrigeration Engineering Co. v. McKay – 1971, McRee v. Quitman Oil Co. – 1915). Một phán quyết của tòa Oregon đã cho rằng các sáng lập viên công ty cổ phần là các thành viên hợp danh - “joint adventurers” (Án lệ vụ kiện Abrams v. Puziss – 1963).[12]
Một tòa án khác lại quyên bố rằng mối quan hệ giữa các sáng lập viên công ty cổ phần là một vấn đề thực tiễn phức tạp không dễ định nghĩa:
“Các mối quan hệ giữa các sáng lập viên công ty cổ phần không phải cái có thể định nghĩa hay phân loại rò ràng, nhưng các quyền và nghĩa vụ giữa họ được dựa trên mối quan hệ hợp đồng cụ thể mà họ tham gia, các mục tiêu chung của họ, nhiệm vụ cụ thể của họ trong nhóm các sáng lập viên, sự hiểu
biết có liên quan và sự đóng góp của họ vào công việc chung. Các quyền và nghĩa vụ của họ được quyết định dựa vào các tài sản hiện có, có đóng góp hay không khi cùng ở vị trí của các đồng sáng lập viên, có ai là đối tác và có ai là đại diện hay không, hoặc có các mối quan hệ thực tế khác giữa họ hay không. Một quyết định như vậy trở thành câu hỏi cơ bản của thực tiễn xét xử (phán quyết trong vụ kiện Schuette v. Winternitz - 1972).[12]
Trong luật thành văn của một số quốc gia khác có quy định về khái niệm nhóm sáng lập viên. Theo khoản mục (k) và (l) Điều 6.8.3.2 của Chương VI - DIP Guidelines của Ấn Độ quy định nhóm sáng lập viên bao gồm các đặc điểm như sau:
(a) Là sáng lập viên,
(b) có mối quan hệ họ hàng (vợ/chồng, bố mẹ, anh chị em…); và
(c) Nếu sáng lập viên công ty là một công ty, nhóm sáng lập viên bao gồm công ty đó và:
i. một công ty con hoặc công ty quản lý vốn của công ty được thành lập;
ii. bất kỳ công ty nào mà sáng lập viên nắm giữ từ 10% trở lệ vốn điều lệ hoặc nắm giữ từ 10% trở lên vốn điều lệ của sáng lập viên.
iii. bất kỳ công ty nào mà một nhóm cá nhân hoặc công ty hoặc nhóm cá nhân và công ty nắm giữ từ 20% trở lên vốn điều lệ của sáng lập viên và cũng nắm giữa từ 20% trở lên vốn điều lệ của công ty phát hành cổ phiếu; và
(d) Nếu sáng lập viên công ty là cá nhân, nhóm sáng lập viên bao gồm người đó và:
i. bất kỳ công ty nào trong đó sáng lập viên công ty cổ phần hoặc người thân của người này nắm giữ từ 10% vốn điều lệ trở lên; hoặc một hãng hoặc hộ gia đình mà sáng lập viên hoặc bất kỳ người thân nào của anh ta là thành viên.
ii. bất kỳ công ty nào trong đó công ty quy định trong điểm (i) ở trên nắm giữ từ 10% vốn cổ phần; và
iii. bất kỳ hộ gia đình Hindu hoặc hãng nào trong đó tổng số cổ phần của sáng lập viên và người thân của anh ta chiếm từ 10% tổng vốn trở lên.
iv. tất cả những cá nhân mà cổ phần của họ được tập hợp lại để công bố trong bản cáo bạch dưới số cổ phần của nhóm sáng lập viên
Định nghĩa nêu trên không chỉ bao hàm trong đó sáng lập viên và người thân của anh ta mà còn bao gồm cả công ty con hoặc công ty mẹ hoặc bất cứ công ty nào mà sáng lập viên giữ từ 10% vốn trở lên. Với trường hợp sáng lập viên là thể nhân, nhóm sáng lập viên bao gồm cả hộ gia đình Hindu hoặc một hãng trong đó các sáng lập viên và người thân của anh ta chiếm hữu tổng số cổ phần lớn hơn hoặc bằng 10% tổng vốn của công ty. Định nghĩa cũng nhắm tới những người nắm giữ tổng số cổ phần đủ để công bố trong bản cáo bạch của công ty phát hành cổ phiếu.
Có thể thấy khái niệm nhóm sáng lập viên ở trên đã phân biệt các sáng lập viên là pháp nhân (bao gồm các công ty mẹ và công ty con) và sáng lập viên là thể nhân (bao gồm người thân, công ty, hộ gia đình và hợp danh mà anh ta sở hữu số lượng cổ phần nhất định). Tuy nhiên, khái niệm nhóm sáng lập viên công ty cổ phần được định nghĩa trong DIP Guiline, cũng như định nghĩa về sáng lập viên công ty cổ phần trong các quy định về thị trường chứng khoán Ấn Độ chỉ được thiết kế nhằm công khai trong bản cáo bạch về cổ phần và giao dịch chuyển nhượng của công ty phát hành cổ phiếu tại Ấn Độ chứ không có nhiều ý nghĩa trong pháp luật về công ty.
* Sự du nhập của thuật ngữ “promoter” từ Anh vào một số quốc gia Common Law khác: Thuật ngữ promoter xuất hiện đầu tiên nhằm mục đích áp dụng cho các công ty cổ phần niêm yết tại Anh, sau đó khái niệm này mới được phổ biến tại Hoa Kỳ. Tuy vậy thuật ngữ promoter được sử dụng tại Mỹ
với ý nghĩa giới hạn hơn nhiều tại Anh. Ủy viên Hội đồng thẩm phán Simpson Tòa án tối cao bang Kansas, vào năm 1887, đã chỉ ra rằng: “Thuật ngữ promoter có khởi nguồn từ phương thức hình thành công ty cổ phần phát hành cổ phiếu thành lập tại Anh, nơi mà luật thừa nhận họ là các hợp danh (partnership). Sau đó, vào kỷ nguyên phát triển đường sắt ở quốc gia này, việc kinh doanh thành lập công ty của các công ty hợp danh như vậy có hình thức rò ràng hơn. Quá trình thông thường như sau: Sáng lập viên công ty cổ phần giới thiệu công ty với một số người giàu có tại địa phương trên dọc các các tuyến đường tầu hỏa được xây dựng một cách có mục đích tại các địa phương, thông tin cho họ về tính chất và các viễn cảnh của công ty, và cung cấp đánh giá dự kiến về các chi phí có thể. Những người này được mời mọc tham gia bằng cách tham gia quản lý hoặc đăng ký cổ đông, hoặc cả hai. Khi đã đủ số người để đảm bảo thành lập một ủy ban giám sát, ủy ban này bổ nhiệm trong số các thành viên để thành lập ủy ban quản lý, cơ quan ban hành bản cáo bạch, công bố các thuộc tính và lợi ích có thể của kế hoạch, các dự định để tiến hành, số lượng vốn cần thiết, số lượng và giá cổ phần và các chi tiết khác để đính kèm theo tên các sáng lập viên công ty cổ phần, liên quan đến tên của những người thành lập nên ủy ban giám sát. Nếu tất cả những công việc này dẫn tới khả năng chắc chắn thành công, đơn xin thành lập công ty sẽ được gửi tới nghị viện để lấy giấy phép của công ty. Nếu kế hoạch thất bại, các chi phí bỏ ra dẫn tới các vụ kiện, và nhiều thắc mắc về nghĩa vụ của các ủy ban này và của các sáng lập viên công ty cổ phần được phán quyết. Nếu công ty được đảm bảo bởi hành vi của nghị viện thì các thắc mắc khác được đặt ra là các sáng lập viên công ty cổ phần có thể bị điều chỉnh bởi các đạo luật nào, những luật nào có lợi cho công ty, và nhiều thắc mắc khác phát sinh ngoài vụ việc.” Ngài Simpson thêm rằng: “cách thức này không giống với các thức tổ chức công ty cổ phần của chúng tôi. Trên thực tế thuật ngữ này được sử dụng trong