Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT


NGUYỄN THANH CẨM THƯƠNG


NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN


Chuyên ngành : Luật kinh tế Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƯƠNG


Hà Nội – 2011



MỤC LỤC


Trang

Lời cam đoan

1

Mục lục

2

MỞ ĐẦU

4

Chương 1 - KHÁI NIỆM SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY

7


1.1.

CỔ PHẦN

Khái niệm và những đặc trưng của sáng lập viên công ty cổ


7


phần trong Common Law


1.1.1

Khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần

7

1.1.2

Một số đặc trưng của sáng lập viên công ty cổ phần

18

1.1.3

Phân biệt với khái niệm cổ đông sáng lập trong các đạo luật

26


1.2.

về công ty

Liên hệ với khái niệm cổ đông sáng lập trong Luật Doanh


30


nghiệp Việt Nam



Chương 2 - CÁC QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CƠ BẢN CỦA

SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN

36

2.1.

Quyền của sáng lập viên công ty với công

thành lập

ty

cổ

phần

sau

36

2.2.

Nghĩa vụ của sáng lập viên công ty cổ phần





40

2.2.1.

Nghĩa vụ uỷ thác





40

2.2.2.

Nghĩa vụ công khai thông tin





46

2.2.3.

Nghĩa vụ đối với các hợp đồng tiền công ty





54

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 95 trang tài liệu này.

Những vấn đề pháp lý về sáng lập viên công ty cổ phần - 1


Chương 3 - TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ DO VI PHẠM 67

NGHĨA VỤ CỦA SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN

3.1. Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ với công ty cổ phần 67

3.2. Trách nhiệm của sáng lập viên đối với những người đăng ký 70

mua cổ phần của công ty

3.2.1. Trách nhiệm dân sự 70

3.2.2. Trách nhiệm hình sự 74

3.3. Liên hệ với pháp luật Việt Nam 78

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 81

TÀI LIỆU THAM KHẢO 84

MỞ ĐẦU‌


1. Ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài

Đối với các công ty, cần có quá trình chuẩn bị ban đầu để tiến tới cho ra đời một công ty trên thực tế, tuỳ thuộc loại hình công ty được lựa chọn mà quá trình này có thể đơn giản hoặc phức tạp. Với các công ty trách nhiệm hữu hạn (LC), công ty cổ phần (corporation) hoặc hiệp hội kinh doanh (syndicate)

- thường được gọi chung là công ty cổ phần (corporation), công ty có vốn được chia thành nhiều phần bằng nhau, có yêu cầu pháp lý khi thành lập cao, quá trình thành lập các công ty này thường phức tạp hơn, và do đó cần tới vai trò của một hoặc một số người đảm nhiệm những công việc và nghĩa vụ pháp lý để tạo lập nên công ty.

Vào cuối thế kỷ 19, các án lệ liên quan đến mối quan hệ của những người này với các công ty cổ phần rất phổ biến tại các quốc gia Common Law, nơi đang ở giai đoạn phát triển cực thịnh của ngành công nghiệp đường sắt và có sự phát triển mạnh mẽ hoạt động giao thương dọc theo các tuyến đường tàu hoả. Thực tế này đã đặt ra cho các luật gia của Common Law yêu cầu nghiên cứu bản chất mối quan hệ giữa những người tham gia sáng lập nên các công ty với công ty và các chủ thể khác. Bởi hành vi của họ gắn liền với quá trình xúc tiến thành lập công ty cổ phần (promotion) nên những người này được gọi là các “promoter” - người xúc tiến việc hình thành nên công ty, hay sáng lập viên của công ty. Đây là người ký kết, thực hiện các thoả thuận phục vụ cho việc thành lập công ty, đặc biệt với công ty cổ phần, thực hiện việc kêu gọi vốn và tập hợp cổ đông để công ty được thành lập, quá trình này gắn liền với các thoả thuận mà các promoter có thể thiết lập, thực hiện cho công ty trước khi công ty được thành lập.


4

Tuy các vụ kiện liên quan đến sáng lập viên công ty cổ phần không còn phổ biến như hồi thế kỷ 19 do sự phát triển của hệ thống pháp luật về công ty và luật hợp đồng nói chung đã làm giới hạn nhiều quyền năng của sáng lập viên công ty cổ phần, nhưng đến ngày nay, mối quan hệ giữa sáng lập viên với công ty cổ phần vẫn có ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho các toà án trong việc xét xử các hợp đồng tiền công ty và để giải thích cho mối quan hệ giữa công ty cổ phần và các chủ thể có liên quan khác.

2. Mục đích nghiên cứu

Công ty cổ phần là một thành phần kinh tế quan trọng trong kinh tế thị trường, đây cũng là hình thức tổ chức kinh doanh được pháp luật đặc biệt quan tâm do tính chất, quy mô và những mối liên hệ phức tạp của nó. Trong giới hạn của luận văn này, người viết muốn tìm hiểu và đưa ra những học thuyết cơ bản của hệ thống pháp luật Common Law về sáng lập viên công ty cổ phần, một thành tố quan trọng trong quá trình hình thành nên công ty cổ phần, để hiểu rò hơn bản chất các mối quan hệ pháp lý bên trong và bên ngoài của loại hình công ty này. Qua đó góp phần làm rò hơn những hạn chế của quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về công ty cổ phần.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu: Sáng lập viên công ty cổ phần, chủ thể đem lại hơi thở cho một công ty cổ phần trên thị trường và tạo lập nên những mối quan hệ cho công ty đó trước và sau khi được thành lập.

Phạm vi nghiên cứu: Khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần được hình thành đầu tiên và phát triển rộng rãi trong hệ thống pháp luật Common Law nên người viết tập trung nghiên cứu những học thuyết của Common Law về chủ thể này. Bên cạnh đó phân tích những quy định pháp luật hiện có của Luật công ty Việt Nam về sáng lập viên công ty cổ phần.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Sau khi đưa ra các quan điểm, học thuyết pháp lý của Common Law về sáng lập viên công ty cổ phần, người viết phân tích các quy định hiện hành của pháp luật công ty Việt Nam về vấn đề này để tìm ra điểm khác biệt và hạn chế cần hoàn thiện của pháp luật Việt Nam.

- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Qua quá trình phân tích các học thuyết pháp lý của Common Law và so sánh với quy định pháp luật Việt Nam, người viết tổng kết đưa ra những nội dung cơ bản về sáng lập viên mà pháp luật Việt Nam cần nghiên cứu hoàn thiện.

5. Nội dung của luận văn

Căn cứ theo mục đích nghiên cứu, cơ cấu của luận văn gồm 3 phần:

- Chương 1: Khái niệm Sáng lập viên công ty cổ phần

- Chương 2: Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của Sáng lập viên công ty cổ phần

- Chương 3: Trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ của Sáng lập viên công ty cổ phần

Trong phạm vi luận văn và trình độ còn hạn hẹp, luận văn không tránh khỏi còn nhiều thiếu sót rất mong nhận được sự góp ý của quý thầy cô.

Xin chân thành cảm ơn.

Chương 1 - KHÁI NIỆM SÁNG LẬP VIÊN CÔNG TY CỔ PHẦN‌‌


1.1. Khái niệm và những đặc trưng của Sáng lập viên công ty cổ phần theo hệ thống pháp luật Common Law

1.1.1. Khái niệm Sáng lập viên công ty cổ phần

* Khái niệm của Luật thành văn: Luật pháp đã có những quy định khá khắt khe về nghĩa vụ đối với những người trở thành sáng lập viên công ty cổ phần, quy định cho họ những tiêu chuẩn cao về mặt đạo đức, và phải cẩn trọng với những mối quan hệ của họ với công ty dự định thành lập. Trước hết chúng ta cần làm rò khái niệm của thuật ngữ sáng lập viên công ty cổ phần - promoter để hiểu được rò hơn những nghĩa vụ và trách nhiệm mà người này phải gánh vác. Tuy vậy không thể lý giải một cách đơn giản khái niệm sáng lập viên công ty cổ phần trong mối quan hệ với các công ty cổ phần. Thuật ngữ này không chỉ là một tên gọi mà nó bao hàm các hành vi và các mối quan hệ của nhiều bên trong quá trình thành lập công ty cổ phần.

Thuật ngữ promoter được thừa nhận về mặt pháp lý vào cuối thế kỷ 19 tại Anh. Trong một số vụ kiện trước đó, những người tham gia vào việc thành lập công ty cổ phần được gọi là các “projector” - người lập dự án, một số vụ kiện khác cũng cùng giai đoạn này lại không đặt tên cho mối quan hệ giữa những người này với công ty dự định thành lập. Thuật ngữ “promoter”, vốn bắt nguồn từ cách nói thông thường trong giao thương, hầu như đã không được sử dụng trong bất kỳ phán quyết nào tại Anh cho đến sau khi được quy định trong Luật Công ty Cổ phần Anh năm 1844 (English Joint Stock Companies of 1844) với ý nghĩa để chỉ: “tất cả những người hành động dưới bất kỳ danh nghĩa nào trong việc hình thành và thiết lập một công ty vào bất kỳ giai đoạn nào trước khi công ty lấy được giấy chứng nhận đăng ký đầy đủ”.[7]

Trong cuốn sách nổi tiếng về luật công ty của mình, “Lindley on Companies Law” - tựa gốc là “Treatise on the Law of Partnership, including its Application to Joint Stock and other Companies” ấn hành năm 1860, Ngài Thẩm phán Baron Lindley (29/11/1828 - /12/1921) của Hội đồng thẩm phán Liên hiệp Anh đã viết: “Vẫn còn nhiều tranh cãi đáng quan tâm về ý nghĩa của thuật ngữ promoter cũng như những vấn đề liên quan tới mối quan hệ của anh ta với công ty mà anh ta mong muốn thành lập. Thuật ngữ này bản thân nó chưa được định nghĩa, nhưng nó đã được sử dụng trong cách nói hàng ngày và được quy định trong Điều 38 của Luật Công ty năm 1867, để chỉ những người đem lại sự tồn tại một công ty, bằng cách thực hiện những hoạt động thực tế để thành lập nó, kêu gọi nhiều người tham gia vào nó ngay khi công ty được thành lập trên thực tế.”[7]

Sang thế kỷ 20, thuật ngữ này được xuất hiện lại trong một số văn bản pháp lý của Ấn Độ, không phải về công ty, mà là về thị trường chứng khoán như Hướng dẫn về công bố thông tin và bảo vệ nhà đầu tư năm 2000 (Disclosure and Investor Protection - “DIP Guidelines”) và Quy định về mua lại cổ phần với quy mô lớn và mua lại công ty năm 1997 (Substantial acquisition of Shares and Takeover Regulations) của Uỷ ban Chứng khoán Ấn Độ - Securities Exchange Board of India. Giải thích I cho tiểu mục (k) và

(l) của Điều 6.8.3.2 của Chương VI - DIP Guidelines định nghĩa thuật ngữ “promoter” bao gồm:

(a) một người hoặc nhiều người kiểm soát toàn bộ công ty;

(b) một người hoặc nhiều người thực hiện việc thành lập một kế hoạch hoặc chương trình chiểu theo quy định phát hành chứng khoán đại chúng;

(c) một người hoặc nhiều người có tên trên bản cáo bạch như là các sáng lập viên của công ty.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 22/06/2022