cơ quan thi hành án và lực lượng CSTP trong hoạt động xét xử và thi hành án bởi vì mỗi cơ quan chịu sự quản lý, điều hành của các cơ quan cấp trên trực tiếp khác nhau, đó là TANDTC, Bộ Tư pháp và Bộ Công an.
Dựa trên các quan điểm về cải cách tư pháp và định hướng xây dựng lực lượng CSTP của Đảng trong Nghị quyết 08 ngày 02/01/2002, quan điểm của chúng tôi là cần phải thành lập một lực lượng CSTP độc lập trong ngành Công an (tức là không thuộc lực lượng Cảnh sát nhân dân) và do Bộ Công an trực tiếp quản lý với cơ cấu tổ chức là: Cục CSTP thuộc Bộ Công an; Phòng CS TP thuộc các Sở Công an cấp tỉnh, Đội CSTP thuộc Công an cấp huyện. Điểm hợp lý của mô hình này là phù hợp với định hướng thành lập CSTP của Đảng ta, không gây xáo trộn về tổ chức bộ máy, biên chế, phù hiệu, trang phục, không phải sửa đổi nhiều văn bản phá p luật. Bên cạnh đó để khắc phục khó khăn trong việc phối hợp công tác giữa TA, thi hành án và lực lượng CSTP thì ba Bộ (Bộ Công an, Bộ Tư pháp và TANDTC) phải xây dựng một Qui chế phối hợp hoạt động, ở đó qui định rò chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan và cơ chế phối hợp hoạt động cụ thể thì chắc chắn hiệu quả công tác sẽ cao.
Về nhiệm vụ của lực lượng CSTP thuộc Bộ Công an có thể qui định như sau: Bảo vệ các cơ quan tư pháp, bảo vệ trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ; bảo vệ và đảm bảo an ninh cho phiên tòa xét xử, thực hiện việc dẫn giải bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa (trong trường hợp pháp luật qui định); Thực hiện các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quyết định của TA và các nhiệm vụ khác theo qui định của pháp luật.
3.2.2.8- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế.
Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về tổ chức và hoạt động của hệ thống TA ở các nước, về đào tạo cán bộ TA, về đấu tranh phòng chống tội phạm, về giải quyết các loại tranh chấp trên cơ sở bảo đảm độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia.
Xây dựng quy chế phối hợp chung trong hoạt động phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm có yếu tố quốc tế giữa nước ta với các tổ chức quốc tế như INTERPOL, ASEANPOL, với cảnh sát các nước láng giềng và khu vực , với cảnh
sát một số quốc gia có nhiều công nhân Việt Nam sinh sống, lao động, học tập như Nga, Đức, Séc, Hàn Quốc…
Thắt chặt sự phối hợp với TA các nước trong đấu tranh và phòng ngừa tội phạm là người Việt Nam ở nước ngoài.
Có thể bạn quan tâm!
- Đổi Mới Hệ Thống Pháp Luật Làm Cơ Sở Cho Việc Cải Cách Tổ Chức Và Hoạt Động Của Hệ Thống Toà Án Ở Nước Ta.
- Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Tòa Án Trong Sạch, Vững Mạnh Và Đổi Mới Công Tác Đào Tạo, Bồi Dưỡng Cán Bộ Tòa Án:
- Tăng Cường Đầu Tư Cơ Sở Vật Chất, Kinh Phí Hoạt Động Cho Tòa Án Và Có Chế Độ Đãi Ngộ Thỏa Đáng Đ Ối Với Cán Bộ Tòa Án Và Hội Thẩm.
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống toà án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền - 25
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống toà án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền - 26
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn về cải cách hệ thống toà án Việt Nam theo định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền - 27
Xem toàn bộ 231 trang tài liệu này.
Thường xuyên trao đổi thông tin, kinh nghiệm với các nước, cung cấp tài liệu, tổ chức khảo sát, hội thảo, hội nghị quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm có tính quốc tế.
Tăng cường năng lực cho các TA trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức, cá nhân, phòng ngừa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
Các Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW (khóa VII) đã khẳng định những quan điểm cơ bản và phương hướng tiếp tục củng cố và tăng cường hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám BCHTW (khóa VII) đã xác định: “mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp, về phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội” [25 tr.58]. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 tiếp tục khẳng định: “Nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm về giải quyết các loại tranh chấp trên cơ sở bảo đảm độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia.
Phổ biến rộng rãi và tổ chức thực hiện tốt các Công ước quốc tế, Hiệp định tương trợ tư pháp và các Hiệp định hợp tác phòng, chống tội phạm mà Nhà nước ta đã ký kết hoặc gia nhập; tiếp tục nghiên cứu việc ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với các nước khác, trước hết là với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các nước có quan hệ truyền thống…” [2 tr.8]. Việc xác định rò ràng các nguyên tắc hợp tác tương trợ tư pháp không những tạo ra cơ sở pháp lý để thực hiện một cách thống nhất những cam kết song phương và đa phương của Nhà nước Việt Nam mà còn là một bước thể chế hóa và cụ thể hóa đường lối đối ngoại “đa phương hóa, đa dạng hóa” trong thế chủ động của Đảng ta đã được xác định trong các Nghị quyết, các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc.
Trên tinh thần các Nghị quyết của Đảng, hoạt động tương trợ tư pháp giữa nước ta và các nước trong thời kỳ đổi mới cần được củng cố và tăng cường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, mức độ phức tạp và số lượng các vụ việc pháp luật có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng, theo chúng tôi, các cơ quan: Bộ Tư pháp – Toà án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao- Bộ Công an - Bộ Ngoại giao cần thành lập một tổ công tác chuyên trách liên ngành để nghiên cứu các vấn đề pháp luật thuộc lĩnh vực hoạt động tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các nước. Tổ công tác này là đầu mối chung đồng thời là cơ quan tư vấn cho lãnh đạo các ngành hữu quan về vấn đề pháp luật và thực tiễn quốc tế ở các nước có ký kết hiệp định tương trợ tư pháp với nước ta trong lĩnh vực phòng chống tội phạm và các lĩnh vực tư pháp khác. Trước mắt cần tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành để rà soát hệ thống văn bản pháp luật hiện hành trong lĩnh vực này, đề xuất việc sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản pháp luật cần thiết, bảo đảm thực hiện có hiệu quả các ủy thác tư pháp của TA Việt Nam gửi ra nước ngoài và các ủy thác tư pháp của TA nước ngoài gửi TA nước ta. Cần xây dựng văn bản hướng dẫn về qui trình và thủ tục lập và gửi các hồ sơ ủy thác tư pháp của các Toà án Việt Nam cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để đưa hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật vào nền nếp, đáp ứng các yêu cầu tương trợ tư pháp trong giai đoạn hiện nay và thời kỳ mới. Tiếp theo Nhà nước cần nghiên cứu để sớm ban hành văn bản pháp luật, có thể là Pháp lệnh về tương trợ tư pháp quốc tế để đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng NNPQ Việt Nam trong điều kiện mở rộng quan hệ quốc tế về tương trợ tư pháp hiện nay.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
1- Cải cách hệ thống TA phải thực hiện được những mục tiêu và quán triệt những quan điểm, phương hướng chỉ đạo về cải cách tư pháp do Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra, đó là xây dựng một hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, từng bước tiến lên hiện đại có phương thức tổ chức và hoạt động khoa học, có hiệu lực và hiệu quả phù hợp với yêu cầu mới về xây dựng và kiện toàn tổ chức các cơ quan Nhà nước. Cải cách hệ thống TA phải được tiến hành đồng bộ với việc cải cách bộ máy nhà nước, cải cách các cơ quan tư pháp khác và phải có bước đi
thích hợp phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, lịch sử… của nước ta trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của nền tư pháp Việt Nam và thế giới, phải dựa trên các quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảm bảo hệ thống TA phải giữ vững bản chất của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là NNPQ mang bản chất nhân dân, bảo đảm thực sự chủ quyền của nhân dân…
2- Về những phương hướng và giải pháp cải cách hệ thống TA theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền
- Cải cách hệ thống TA ở nước ta trong giai đoạn hiện nay phải quán triệt phương hướng chung là củng cố, kiện toàn bộ máy TA theo hướng gọn nhẹ nhưng đảm bảo hoạt động có hiệu quả, nghiên cứu thành lập các Tòa chuyên môn, thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử, đổi mới thủ tục giám đốc thẩm, nghiên cứu áp dụng thủ tục xét xử rút gọn đối với các vụ án dân sự, kinh tế… bảo đảm chính xác, nhanh chóng, tuân thủ luật trong mọi hoạt động của TA. Xây dựng đội ngũ cán bộ TA trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn và vững vàng về nghiệp vụ luôn “chí công vô tư” trong hoạt động xét xử của mình.
- Những giải pháp cải cách hệ thống Toà án được tác giả luận án đưa ra là:
+ Hoàn thiện tổ chức của hệ thống TA theo mô hình kết hợp giữa ngu yên tắc hành chính lãnh thổ với nguyên tắc thẩm quyền xét xử; Tăng thẩm quyền xét xử của TA trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn với những vụ án dân sự, kinh tế… có giá trị nhỏ, không phức tạp và rò ràng để giảm bớt thủ tục rườm rà, kéo dài thời gian và tốn kém cho nhân dân.
+ Đổi mới hệ thống pháp luật làm cơ sở pháp lý cho cải cách hệ thống TA.
+ Xây dựng đội ngũ cán bộ TA trong sạch, vững mạnh và đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ TA đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và những nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết 08-NQ/TW đã đặt ra.
+ Đổi mới trình tự tổ chức tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán và bầu Hội
thẩm.
+ Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho TA và có chế độ đãi ngộ thỏa đáng với cán bộ TA và Hội thẩm nhằm bảo đảm cho cán bộ TA và Hội thẩm TAND có đủ điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ để bảo đảm cuộc sống, yên tâm
phấn đấu cho nền công lý của Nhà nước ta - một lĩnh vực quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi cải cách tư pháp, cải cách hành chính Nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
+ Đảm bảo và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Ủy ban pháp luật Quốc hội và HĐND đối với hoạt động của hệ thống Toà án.
+ Xây dựng lực lượng CSTP để hỗ trợ cho hoạt động xét xử của TAND.
+ Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp, góp phần vào việc mở rộng quan hệ đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta phục vụ tốt hơn cho nền kinh tế thị trường và công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa đất nước.
KẾT LUẬN
Cải cách hệ thống TA ở nước ta về tổ chức và hoạt động là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công cuộc cải cách tư pháp hiện nay. Đây không chỉ là một đòi hỏi khách quan và cấp thiết để đáp ứng yêu cầu xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế mà còn là đòi hỏi của việc đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước và xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, đảm bảo để Nhà nước quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Bằng việc kết hợp hài hòa các phương pháp nghiên cứu, nội dung của luận án đã giải quyết được những vấn đề cơ bản về mục đích và nhiệm vụ của đề tài đã đặt ra. Kết quả nghiên cứu cả trên phương diện lý luận và thực tiễn trong việc tổ chức và hoạt động của hệ thống TA ở nước ta đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề sau:
1. TA là bộ phận quan trọng không thể thiếu được trong bộ máy nhà nước của bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên, sự khác nhau về chế độ c hính trị, chế độ kinh tế, đặc điểm dân cư… trong mỗi kiểu nhà nước dẫn đến việc tổ chức bộ máy nhà nước cũng khác nhau. Trong bộ máy nhà nước chiếm hữu nô lệ và phong kiến thì TA chưa được tổ chức thành một hệ thống cơ quan rò ràng, tách biệt và hoạt động xét xử chưa được trở thành một hình thức hoạt động độc lập. Trong nhà nước tư sản thì quyền lực nhà nước được phân thành ba nhánh: quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trên cơ sở đó qui định TA có vị trí độc lập thực hiện quyền tư pháp và đối trọng với quyền lập pháp và hành pháp. Mô hình tổ chức TA trong từng nhà nước tư sản cũng không giống nhau và vị trí, vai trò của nó phụ thuộc vào hình thức chính thể nhà nước, vào truyền thống tư pháp của mỗi quốc gia và đặc biệt là vào hệ quan điểm chính trị của giai cấp nắm quyền lực nhà nước. Ở chương 1 của luận án đã khái quát được một số mô hình tổ chức và hoạt động của TA ở một số nước trên thế giới cùng những nguyên tắc tổ chức và hoạt động mang tính phổ biến của hệ thống TA ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Hợ p chủng quốc Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Liên bang Nga và Trung Quốc…
2. Luận án đã phân tích và làm rò được vị trí, chức năng và vai trò của TAND trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay. Trong đó TAND là một
hệ thống cơ quan có vị trí độc lập trong bộ máy nhà nước thực hiện chức năng xét xử - một hoạt động cơ bản của quyền tư pháp, nhân danh quyền lực nhà nước, một chức năng không thể thiếu được của bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đồng thời luận án phân tích các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống TA ở nước ta theo HP và Luật tổ chức TAND.
3- Luận án đã trình bày khái quát lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống TA ở nước ta qua các giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến năm 1959; từ 1959 đến năm 1980; từ 1980 đến 1992 và từ 1992 đến nay. Trong nội dung của phần này, luận án đã giới thiệu tương đối đầy đủ các chế định cơ bản qui định về tổ chức và hoạt động của hệ thống TA ở nước ta, đặc biệt là dựa trên cơ sở qui định của HP 1992 và Luật tổ chức TAND năm 2002.
4- Bằng những số liệu thống kê cụ thể, luận án đã phân tích và đưa ra những nhận xét, đánh giá về thực trạng cơ cấu tổ chức, thẩm quyền và hoạt động xét xử trong các lĩnh vực hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động và hành chính của các cấp TA và thực trạng về đội ngũ cán bộ ngành TAND trên tất cả hai bình diện: thành tựu và hạn chế cùng với việc đưa ra những nguyên nhân của nó dựa trên những căn cứ khoa học và thực tiễn. Thời gian qua, hoạt động của hệ thống TA đã đạt được nhiều kết quả, góp phần quan trọng vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể và công dân, phục vụ tích cực cho công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy còn cồng kềnh, cơ chế hoạt động còn có bất hợp lý nhưng chậm được đổi mới. Đội ngũ cán bộ TA còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, một bộ phận cán bộ thoái hóa, tiêu cực sa sút về phẩm chất đạo đức, chất lượng hoạt động tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới đất nước, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và nền công lý ở nước ta. Thực trạng này đã đặt ra yêu cầu khách quan, cấp bách cần phải cải cách hệ thống TA về tổ chức và hoạt động để đáp ứng yêu cầu đổi mới kinh tế, cải cách tư pháp, cải cách hành chính và xây dựng NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
5- Cải cách hệ thống TA phải đạt được những mục tiêu, quán triệt các quan điểm, phương hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước đặt ra và phải được
tiến hành đồng thời với cải cách bộ máy nhà nước, cải cách các cơ quan tư pháp khác nhằm xây dựng bộ máy nhà nước (trong đó có hệ thống TA) vững mạnh, trong sạch, hoạt động có hiệu quả phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
6- Luận án cũng đã đưa ra và phân tích nội dung cơ bản của các giải pháp cải cách hệ thống TA nước ta theo định hướng xây dựng NNPQ như sau:
- Hoàn thiện tổ chức của hệ thống TA theo mô hình kết hợp nguyên tắc hành chính lãnh thổ và thẩm quyền xét xử; Tăng thẩm quyền xét xử của TA và áp dụng thủ tục xét xử rút gọn đối với các vụ án khác ngoài vụ án hình sự.
- Đổi mới hệ thống pháp luật làm cơ sở cho cải cách hệ thống TA ở nước ta, nghiên cứu thành lập thêm các TA chuyên môn để phục vụ kịp thời cho công cuộc đổi mới hiện nay ở nước ta.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ TA trong sạch, vững mạnh có phẩm chất đạo đức tốt, vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời phải đổi mới trình tự tổ chức tuyển chọn bổ nhiệm Thẩm phán và bầu HTND để khắc phục những bất cập, yếu kém của đội ngũ cán bộ tư pháp được nêu ra trong Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị.
- Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị làm việc và kinh phí hoạt động cho Thẩm phán và Hội thẩm TAND để từng bước hiện đại hóa công sở và phương tiện làm việc để hệ thống TA hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND đối với hoạt động của TA.
- Mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp giữa Nhà nước Việt Nam, các cơ quan tư pháp Việt Nam với các nước có quan hệ hợp tác tương trợ tư pháp trên thế giới và luôn mở rộng quan hệ này với các nước khác, đặc biệt là với các nước có đông người Việt Nam cư trú, làm ăn sinh sống.
Luận án đạt được những kết quả trên là nhờ sự nỗ lực cố gắng của bản thân cũng như sự giúp đỡ tận tình của các Thầy, Cô hướng dẫn khoa học, của các nhà nghiên cứu lý luận, các nhà hoạt động thực tiễn và các bạn đồng nghiệp. Tuy nhiên, với sự hạn chế về điều kiện nghiên cứu và khả năng nghiên cứu của bản thân có