nhằm tránh chồng chéo và có thể phát huy tối đa lợi thế của từng cơ quan, đóng góp chung vào việc thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại - đầu tư giữa Việt Nam và Ấn Độ.
Các khó khăn và thách thức trong hợp tác kinh tế - thương mại - đầu tư giữa Việt Nam và Ấn Độ còn có nguyên nhân từ khoảng cách xa về địa lý và những khó khăn trong vận chuyển. Do đó, Việt Nam cần chú trọng đẩy mạnh kết nối về giao thông qua đường hàng không, vận tải đường biển và đường bộ. Việc kết nối các đường bay trực tiếp sẽ thúc đẩy thương mại, đầu tư, du lịch giữa hai quốc gia. Đặc biệt, việc kết nối trực tiếp về hàng không sẽ giúp cho việc lưu chuyển hàng hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ dễ dàng, nhanh chóng cũng như giảm chi phí vận chuyển. Điều này sẽ thúc đẩy doanh nghiệp hai nước tích cực đầu tư để khai thác thị trường của nhau. Đối với vận tải đường biển, hầu hết hàng hóa được vận chuyển giữa Việt Nam - Ấn Độ đều phải quá cảnh tại Singapore, khiến thời gian vận chuyển thường kéo dài từ 2-3 tuần và phát sinh thêm chi phí vận tải. Từ năm 2019 với sự hình thành các cảng nước sâu cũng như quá trình ký kết các FTA của Việt Nam đã thúc đẩy việc kết nối vận tải biển giữa Việt Nam và Ấn Độ được thuận lợi hơn. Việt Nam cần thúc đẩy Dự án mạng lưới vận tải biển ASEAN - Ấn Độ mà Việt Nam là thành viên và sớm ký kết Hiệp định hợp tác vận tải hàng hải ASEAN-Ấn Độ (ASEAN-India Maritime Transport Agreement). Việc ký kết và thông qua hiệp định này sẽ tạo ra một hệ thống khung giao thông hàng hải cũng như loại bỏ các rào cản trong giao thông hàng hải giữa Ấn Độ và ASEAN. Đối với kết nối bằng đường bộ, Việt Nam cần thúc đẩy sự mở rộng kết nối Dự án tuyến đường cao tốc ba bên Ấn Độ - Thái Lan - Myamar sang Campuchia, Lào và Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam, Lào, Thái Lan đang phối hợp để sớm triển khai mở rộng hành lang Đông-Tây tới các trung tâm kinh tế của cả ba nước.
Bên cạnh việc tiếp tục phát huy những lĩnh vực truyền thống thu hút FDI Ấn Độ và thương mại hai nước như công nghệ sản xuất phần mềm, nông nghiệp công nghệ cao, may mặc, giày da…, Việt Nam cần có những định hướng mới phù hợp với tình hình mới và lợi thế so sánh của mỗi nước, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch Covid-19 tác động rất lớn tới mỗi quốc gia cũng như quan hệ quốc tế. Việt Nam nên thúc đẩy hợp tác bền vững với Ấn Độ. Việc tăng cường gắn kết kinh tế và thương mại bền vững giữa hai nước nên là mục tiêu chiến lược cơ bản, một trụ cột trong nội hàm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện và là một khía cạnh thiết yếu để tăng cường quan hệ song phương trong tương lai. Đại dịch Covid-19
đã thay đổi cách nhìn nhận truyền thống trong một bối cảnh xã hội, kinh tế và chính trị mới. Việc tái thiết mang tới cơ hội xem xét lại các mô hình kinh tế - xã hội không bền vững - gánh nặng cho sự phát triển bền vững. Như vậy, Việt Nam cần phát huy các yếu tố vốn được xem là lợi thế của Ấn Độ để tập trung thúc đẩy hợp tác vì mục tiêu phát triển bền vững.
Việt Nam rất dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, nên rất cần đa dạng hóa đầu tư vào năng lượng, đặc biệt là năng lượng tái tạo. Nathaniel xác định năng lượng tái tạo cải thiện chất lượng kinh tế và thương mại ở Việt Nam, không gây hại cho môi trường [241]. Trong khi Ấn Độ khá thành công trong tiếp cận điện năng thông qua năng lượng sạch và tái tạo. Các chiến lược của Ấn Độ trong việc xây dựng nền tảng năng lượng tái tạo vững chắc có thể được chia sẻ với Việt Nam và việc chia sẻ kiến thức hiệu quả như vậy đảm bảo đôi bên cùng có lợi [193]. Ấn Độ và Việt Nam có lợi thế chiến lược về đường bờ biển, có thể tạo ra năng lượng gió ngoài khơi một cách hiệu quả. Theo ước tính của WB và Cơ quan năng lượng Đan Mạch, Việt Nam có thể bổ sung 10 gigawatt (GW) vào hỗn hợp năng lượng gió ngoài khơi toàn cầu vào năm 2030 [189]. Việc Việt Nam tham gia vào Liên minh Năng lượng Mặt trời Quốc tế (ISA) (sáng kiến của Thủ tướng Ấn Độ Narenda Modi và Cựu Tổng thống Pháp Hollande) trong thời gian tới sẽ mang lại cơ hội hợp tác mới trong việc triển khai quy mô lớn năng lượng mặt trời.
Tuyên bố tầm nhìn chung Việt Nam - Ấn Độ về Hòa bình, Thịnh vượng và Người dân đã được Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Narenda Modi thông qua tại Hội nghị trực tuyến vào tháng 12/2020 thể hiện cam kết chung của hai nước đối với phát triển bền vững và hành động ứng phó với biến đổi khí hậu ngay cả khi hai nước giải quyết nhu cầu an ninh năng lượng của mình với tư cách là các nước đang phát triển. Một chiến lược hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ có thể cải thiện ngành công nghiệp và tạo ra sự xâm nhập bền vững vào sản xuất năng lượng, đem lại lợi ích và hướng hợp tác mới trong quan hệ song phương. Bên cạnh đó, cơ hội chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tạo ra giá trị lâu dài cho Việt Nam và Ấn Độ. Mối quan hệ chiến lược dưới hình thức tiến bộ công nghệ và việc sử dụng ngày càng nhiều trí tuệ nhân tạo có thể mang lại sự tăng trưởng kinh tế về lâu dài cùng với phát triển bền vững cho hai nước. Việt Nam và Ấn Độ cần thúc đẩy nghiên cứu xây dựng khuôn khổ hợp tác mới cho giai đoạn từ nay đến năm 2030, hướng tới việc thiết lập quan hệ Đối tác số (Digital Partnership) giữa hai nước. Đồng thời, Việt Nam cần tận dụng các cơ hội kinh tế
sẵn có do tình trạng chống Trung Quốc và một số công ty sản xuất quyết định chuyển khỏi thị trường Trung Quốc.
Có thể bạn quan tâm!
- Nhân Tố Bản Sắc Và Lợi Ích Quốc Gia
- Dự Báo Chiều Hướng Tác Động Của Những Nhân Tố Chủ Yếu Tới Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ Đến Năm 2027
- Các Kịch Bản Quan Hệ Việt Nam - Ấn Độ
- Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 21
- Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 22
- Những nhân tố tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 2007 đến nay - 23
Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.
Thứ hai, trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây nên những hệ lụy nghiêm trọng trên toàn thế giới và chưa có dấu hiệu kết thúc, việc hợp tác trên lĩnh vực y tế để ứng phó với đại dịch Covid-19 nói riêng và dịch bệnh nói chung nên được xem là một trong những khâu đột phá trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thời gian tới. Hai nước cần tăng cường hợp tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, sản xuất vaccine, thuốc chữa bệnh… Gần đây, Ấn Độ đã ứng phó rất hiệu quả với Covid- 19 với tỷ lệ tiêm chủng ấn tượng và kinh tế phục hồi mạnh mẽ. Ấn Độ đã tái khởi động xuất khẩu vaccine Covid-19 cho bốn nước Nepal, Bangladesh, Myanmar và Iran. Ấn Độ có thế mạnh về dược phẩm, thiết bị y tế, là nhà cung cấp thuốc lớn nhất trên thế giới. Ngành dược phẩm của Ấn Độ cung cấp hơn 50% nhu cầu toàn cầu đối với các loại vaccine khác nhau, 40% nhu cầu chung ở Mỹ và 25% tất cả các loại thuốc ở Anh. Trên toàn cầu, Ấn Độ đứng thứ ba về sản xuất dược phẩm theo khối lượng và thứ 14 về giá trị [141]. Khoảng 70% vaccine được sử dụng trên khắp thế giới cho các chương trình tiêm chủng mở rộng được sản xuất tại Ấn Độ. Hợp tác thử nghiệm/sản xuất vaccine giữa hai nước cần được đẩy mạnh khi Ấn Độ là cường quốc sản xuất vaccine của thế giới và Việt Nam được WHO hay các cường quốc như Mỹ ủng hộ trở thành trung tâm sản xuất vaccine của khu vực. Việt Nam và Ấn Độ cần hiện thực hóa quan điểm chung giữa Bộ Y tế hai nước, đạt được tại Hội nghị thượng đỉnh trực tuyến giữa Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc và Thủ tướng Narenda Modi (12/2020). Có rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác và cuộc khủng hoảng Covid-19 đã tạo cơ hội cho hai bên thiết lập chuỗi cung ứng toàn cầu mới cho nhiều sản phẩm dược phẩm khác nhau. Việt Nam cần sớm hiện thực hóa ý tưởng xây dựng các Công viên Dược phẩm (Pharma Park) - khu công nghiệp chuyên biệt trong lĩnh vực dược để đón các nhà đầu tư trong lĩnh vực sản xuất dược của thế giới, trong đó có Ấn Độ đến Việt Nam. Các Công viên Dược phẩm này được kì vọng là “đòn bẩy chiến lược” để biến Việt Nam thành một cứ điểm nghiên cứu, phát triển và sản xuất dược phẩm hàng đầu của ĐNA và thế giới [82].
Thứ ba, an ninh - quốc phòng được xem là một trụ cột trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ, nhưng hiệu quả hợp tác dù đã có những bước tiến vượt bậc, nhưng vẫn chưa đi vào thực chất như mong muốn. Trở ngại lớn nhất cho vấn đề này là sự bất cân xứng giữa Việt Nam với Trung Quốc cùng với sự gần kề địa lý dẫn đến tâm lý e ngại Trung Quốc của Việt Nam. Về phía
Ấn Độ, Thủ tướng Narenda Modi đã từng khẳng định: “Hợp tác quốc phòng giữa Ấn Độ với Việt Nam là một trong những mối quan hệ quan trọng nhất của chúng tôi. Ấn Độ tiếp tục cam kết giúp Việt Nam hiện đại hóa các lực lượng an ninh và quốc phòng” [2]. Để thúc đẩy hợp tác, Việt Nam cần xác định rõ mục đích hợp tác là tạo được sự cân bằng quyền lực, đảm bảo lợi ích an ninh chiến lược trước những thách thức an ninh ngày càng lớn từ phía Trung Quốc, đặc biệt trong tình thế quan hệ cấu trúc bất đối xứng Việt - Trung. Việc Việt Nam tự hạn chế quan hệ của mình với các nước lớn, trong đó có Ấn Độ vì lo ngại phản ứng của Trung Quốc sẽ gây ảnh hưởng tới hiệu quả hợp tác. Do đó, Việt Nam cần phải loại bỏ tâm lý e ngại Trung Quốc, hơn nữa tăng cường quan hệ với các nước lớn như Ấn Độ sẽ có tác dụng đòn bẩy khiến Trung Quốc phải nhìn nhận lại nhân tố Việt Nam trong chính sách của mình. Trong “Cương yếu chiến lược an ninh quốc gia” được Bộ Chính trị ĐCS Trung Quốc thông qua ngày 23/1/2015, Trung Quốc coi Việt Nam không phải là đối thủ, nhưng có nguy cơ hợp tác với các nước khác chống Trung Quốc. Vì thế, Trung Quốc vẫn có mục tiêu giữ ổn định quan hệ Trung - Việt để không đẩy Việt Nam về phía các nước lớn [133]. Trong bối cảnh tình hình quốc tế, khu vực ngày càng diễn biến phức tạp, Việt Nam cần linh hoạt trong chiến lược “cân bằng nước lớn” và chính sách quốc phòng “bốn không” để đảm bảo lợi ích quốc gia và đưa quan hệ quốc phòng - an ninh với Ấn Độ đi vào chiều sâu, thực chất. Đồng thời, điều này đòi hỏi Việt Nam phải chủ động nâng cao thế và lực (theo nghĩa tổng hợp gồm cả sức mạnh cứng, sức mạnh mềm và nhất là sự đoàn kết, thống nhất toàn dân tộc) để trở thành một nhân tố quan trọng mà các bên cần phải tính đến trong chiến lược đối ngoại của mình. Việc vận dụng chiến lược này đòi hỏi sự tỉnh táo, linh hoạt, nhận định thời cuộc nhạy bén và tận dụng thời cơ khéo léo trong triển khai đường lối đối ngoại.
Thứ tư, thực tế lịch sử và hiện tại cho thấy, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc luôn khó khăn và mong manh. Cả hai bên luôn duy trì cảm giác nghi ngờ và không tin tưởng lẫn nhau. Ấn Độ lo ngại những hành vi bao vây của Trung Quốc tại Nam Á và Ấn Độ Dương - địa bàn được xem là lợi ích cốt lõi của nước này. Đó cũng là lý do quan trọng để Ấn Độ tăng cường ảnh hưởng ở vùng ngoại vi của Trung Quốc bằng cách phát triển quan hệ với Việt Nam nói chung và bày tỏ quan điểm/hành động về vấn đề Biển Đông nói riêng. Việt Nam cần tận dụng điều này để thúc đẩy quan hệ và kéo New Delhi can dự sâu hơn vào Biển Đông, nhất là tham gia vào các dự án năng lượng trong thềm lục địa của Việt Nam. Sự hiện diện của Hải quân Ấn Độ cũng như việc Ấn Độ bày tỏ quan điểm về Biển
Đông cần được tiếp tục, nhưng chưa đủ vì hiện diện hải quân liên quan đến vấn đề an ninh và dễ bị Trung Quốc phản đối, trong khi bày tỏ quan điểm mà ít hành động, thì Trung Quốc vẫn cứ lấn tới. Trong khi các dự án kinh tế vừa giúp đảm bảo thực thi pháp luật, vừa tăng cường sự hiện diện của Ấn Độ trên thực địa và đem lại lợi ích kinh tế, an ninh, chiến lược cho cả hai nước.
Thứ năm, một trong những khía cạnh thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ là niềm tin chính trị được hậu thuẫn bởi những tương đồng về bản sắc, truyền thống lịch sử, sự ủng hộ lẫn nhau, những gắn kết về văn hóa, đặc biệt là Phật giáo. Trong bối cảnh Chính phủ của Thủ tướng Narenda Modi ngày càng chú trọng vào sức mạnh mềm - như một công cụ mạnh để nâng cao vị thế của Ấn Độ trên thế giới nói chung và khu vực ĐNA nói riêng, thì các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể, các tổ chức nhân dân, doanh nghiệp Việt Nam cần tổ chức triển khai thực hiện cụ thể hóa Chỉ thị số 25-CT- TTg về việc đẩy mạnh triển khai chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam (9/2021) để thúc đẩy nhân tố này. Các chiến lược sử dụng văn hóa, trong đó có Phật giáo sẽ có lợi cho đối trọng/cân bằng ảnh hưởng, vì niềm tin của người dân là điều sẽ đưa cả hai dân tộc tiến lên để đạt được sự cân bằng địa - chính trị và bền vững ở CA - TBD, ÂĐD -TBD trong thế kỷ XXI. Thủ tướng Narenda Modi cũng từng tuyên bố: “Nếu không có Đức Phật thì thế kỷ này sẽ không thể là thế kỷ của châu Á” [219]. Theo đó, Việt Nam cần nghiên cứu các hoạt động liên quan đến Phật giáo để thắt chặt quan hệ hai nước như đăng cai tổ chức Đại hội Phật giáo Thế giới, Đại lễ Phật giáo Ấn Độ, festival văn hóa, các hội thảo nghiên cứu về Phật giáo/di sản văn hóa Phật giáo, giao lưu tăng ni Phật tử, du lịch tôn giáo… dựa trên nền tảng vững chắc là tư tưởng từ bi, trí tuệ, bao dung của Phật giáo mà hai dân tộc cùng nhau chia sẻ.
Thứ sáu, các tổ chức khu vực, toàn cầu cũng là một nhân tố tích cực thúc đẩy quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, đặc biệt là Liên hợp Quốc, ASEAN và các cơ chế do ASEAN dẫn dắt. Những thách thức chiến lược ở khu vực CA - TBD và ÂĐD -TBD chủ yếu là những thách thức do Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam đặt ra, nên cần có sự phối hợp chặt chẽ tại các tổ chức đa phương như Liên hợp quốc, nơi cả Việt Nam và Ấn Độ đều được bầu trở thành thành viên không thường trực HĐBA lần lượt ở các nhiệm kỳ 2020 - 2021, 2021 - 2022. Đây là cơ hội để hai nước phối hợp các phương pháp tiếp cận đối với các vấn đề toàn cầu và khu vực, vì cả hai đều có chung quan điểm về các vấn đề địa - chiến lược, đặc biệt trong lĩnh vực an ninh hàng hải, gìn giữ hòa bình, chống khủng bố và
biến đổi khí hậu. Chẳng hạn, tối ngày 9/8/2021, Ấn Độ với tư cách Chủ tịch luân phiên HĐBA Liên hợp quốc đã mở phiên thảo luận cấp cao trực tuyến với chủ đề “Tăng cường an ninh biển: Một lĩnh vực hợp tác quốc tế” do Thủ tướng N. Modi chủ trì. Đồng thời, Việt Nam cần ủng hộ mạnh mẽ Ấn Độ vào vị trí ủy viên thường trực HĐBA Liên hợp quốc khi cơ chế này cải tổ, vì đây là mục đích trong chiến lược định hình vai trò nước lớn có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu của Ấn Độ. Ở cấp độ khu vực, Việt Nam tiếp tục ủng hộ và sẵn sàng tạo điều kiện, là cầu nối trong quan hệ giữa ASEAN với Ấn Độ, đồng thời củng cố xây dựng một ASEAN đoàn kết để nâng cao vai trò trung tâm của tổ chức này. Vai trò của Việt Nam trong ASEAN có thể giúp Ấn Độ và ASEAN dễ dàng hợp tác hơn trong các vấn đề an ninh khu vực. Như vậy, sẽ tạo được thế cân bằng ảnh hưởng với Trung Quốc tại khu vực ĐNA, phù hợp với lợi ích của Việt Nam và Ấn Độ.
Tiểu kết
Đến năm 2027, về cơ bản quan hệ Việt Nam - Ấn Độ vẫn chịu sự tác động chính của các nhân tố quốc tế và khu vực, bản sắc và lợi ích quốc gia và nhân tố lãnh đạo. Các nhân tố này đều khả biến theo các mức độ khác nhau, trong đó nhân tố bản sắc quốc gia có những nét bản sắc bất biến hoặc khả năng thay đổi ít hơn so với các nhân tố còn lại. Trong thời gian tới, về cơ bản các nhân tố này đều có xu hướng tác động theo cả hai chiều hướng thúc đẩy và cản trở, trong đó mặt thúc đẩy nổi trội hơn. Ở khuôn khổ song phương, những nhân tố thúc đẩy sẽ làm gia tăng hợp tác giữa hai nước trên một số lĩnh vực chính, đặc biệt tập trung ở lĩnh vực quốc phòng - an ninh và kinh tế, còn ở cấp độ đa phương, sự hợp tác được chú trọng thông qua Liên hợp quốc, ASEAN và các cơ chế do ASEAN làm nòng cốt.
Tuy nhiên, với những khác biệt về bản sắc, cách nhìn nhận về lợi ích cùng với những hạn chế tồn tại trong nội bộ mỗi nước, những diễn biến bất ổn, khó lường trong tình hình thế giới, khu vực, phản ứng của các nước lớn, nhất là Trung Quốc khiến Việt Nam và Ấn Độ phải chú ý tới những khía cạnh có thể gây cản trở trong các nhân tố này, dẫn tới những tác động không thuận cho sự phát triển quan hệ hai nước. Đặc biệt, trong thời gian tới, những hậu quả rất lớn từ đại dịch Covid- 19 sẽ là một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến quan hệ hợp tác Việt Nam - Ấn Độ. Những mục tiêu mà hai nước đưa ra như mục tiêu kim ngạch thương mại đạt 15 tỷ USD vào năm 2020 (đã không thực hiện được) và sẽ còn là một thách thức trong thời gian tới. Ngoài ra, trên cơ sở phân tích chiều hướng vận động và tác động của các nhân tố, chương 3 cũng đưa ra một số khuyến nghị chính sách nhằm phát huy những khía cạnh thúc đẩy và hạn chế những khía cạnh cản trở của các nhân tố tác động tới quan hệ hai nước Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2022 - 2027.
KẾT LUẬN
1. Đề tài nghiên cứu được tiến hành trước hết nhằm giải đáp câu hỏi tại sao quan hệ Việt Nam - Ấn Độ vốn là mối quan hệ hữu nghị, truyền thống lâu đời, không có quá khứ tranh chấp, được nâng cấp lên thành đối tác chiến lược/chiến lược toàn diện, mà hiệu quả hợp tác chưa tương xứng với cấp độ quan hệ và tiềm năng mỗi nước. Những nhân tố nào tác động đến việc nâng cấp quan hệ và hiệu quả hợp tác của mối quan hệ đối tác chiến lược/chiến lược toàn diện giữa hai quốc gia? Điều đó thôi thúc nghiên cứu sinh tìm hiểu rõ hơn về những nhân tố tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021, những khía cạnh nào thúc đẩy, những khía cạnh nào cản trở, trên cơ sở đó khuyến nghị chính sách cho Việt Nam nhằm phát huy khía cạnh tích cực và giảm thiểu khía cạnh hạn chế để nâng cao hiệu quả hợp tác song phương.
Để xác định các nhân tố tác động đến quan hệ giữa hai quốc gia nói chung và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ nói riêng, luận án sử dụng những luận điểm phù hợp của các học thuyết quan hệ quốc tế cơ bản là chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa kiến tạo cùng với khung phân tích chính sách đối ngoại gồm ba cấp độ (hệ thống, quốc gia, cá nhân/nhóm). Những luận điểm của các học thuyết này kết hợp với các cấp độ phân tích tương ứng giúp xác định những nhân tố chủ yếu/đặc thù tác động tới quan hệ song phương Việt Nam - Ấn Độ. Khung lý thuyết tạo cơ sở khoa học trong việc xác định chính xác các nhân tố chủ yếu tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Cùng với đó, dưới sự soi chiếu của khung lý thuyết, việc nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ qua các mốc thời gian cụ thể từ khi Việt Nam lập Tổng Lãnh sự quán tại New Delhi (1956) cho đến hiện tại (năm 2021) đã góp phần kiểm chứng giá trị của các mạch lý thuyết về nhân tố tác động tới quan hệ giữa hai quốc gia, trong trường hợp cụ thể của quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, đồng thời cung cấp cơ sở thực tiễn làm nền tảng cho việc nghiên cứu các nhân tố tác động đến mối quan hệ này từ năm 2007 đến nay. Trên cơ sở đó, luận án xác định các nhân tố chủ yếu/đặc thù tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007- 2021 bao gồm: (i) nhân tố quốc tế và khu vực; (ii) nhân tố bản sắc và lợi ích quốc gia; (iii) nhân tố lãnh đạo.
2. Có thể khẳng định, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ là một trong số ít quan hệ song phương giữa Việt Nam với một nước lớn không có tham vọng bá quyền, có truyền thống lâu đời, tốt đẹp, không có vấn đề tranh chấp trong lịch sử. Tuy
nhiên, trước năm 2007, quan hệ hai nước chưa có nhiều sự phát triển thực chất, chủ yếu tập trung trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao. Về cấp độ quan hệ song phương, hai nước là quan hệ đối tác toàn diện. Giai đoạn 2007 - 2021, quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có sự thay đổi về chất khi hai nước hai lần nâng cấp quan hệ: 2007 lên đối tác chiến lược và 2016 lên đối tác chiến lược toàn diện. Ấn Độ là đối tác chiến lược toàn diện thứ ba của Việt Nam cùng với Trung Quốc và Liên bang Nga. Đó được xem là sự phát triển thứ nhất trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ. Sự phát triển thứ hai được thể hiện thông qua thực tiễn hợp tác song phương trên một số lĩnh vực chính, đặc biệt là quốc phòng - an ninh và kinh tế.
Cơ sở cho sự hợp tác giữa các quốc gia trong quan hệ quốc tế chính là lợi ích quốc gia. Theo đó, động lực cho việc nâng cấp quan hệ và phát triển hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ cũng không nằm ngoài yếu tố lợi ích. Lợi ích quốc gia là mục tiêu, là đích đến ẩn sau sự tác động của các nhân tố quốc tế và khu vực, bản sắc quốc gia và lãnh đạo. Theo đó, lợi ích quốc gia giải thích hành vi của Việt Nam và Ấn Độ trong quan hệ quốc tế nói chung và đối với nhau nói riêng, hay nói cách khác đó là căn cứ, cơ sở để hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của mỗi nước, từ đó tác động tới quan hệ hai nước giai đoạn 2007 - 2021. Đây là nhân tố có tác động mạnh mẽ trong việc nâng cấp quan hệ song phương cũng như hiệu quả hợp tác giữa Việt Nam và Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021.
Qua phân tích sự tác động của các nhân tố cho thấy, về cơ bản các nhân tố tác động tới quan hệ Việt Nam - Ấn Độ giai đoạn 2007 - 2021 chủ yếu theo hướng thúc đẩy là chính. Các xu hướng chủ đạo trong quan hệ quốc tế và khu vực thúc đẩy động lực hợp tác vì mục tiêu phát triển, nhất là kinh tế, trong khi môi trường an ninh khu vực tác động tới chính sách cân bằng quyền lực vì mục tiêu an ninh - chiến lược. Nhân tố bản sắc tác động tới việc xác định nội hàm lợi ích quốc gia nói chung và lợi ích cốt lõi của Việt Nam và Ấn Độ đối với nhau nói riêng, từ đó tác động tới nhận thức về vị trí, vai trò của đối tác và chính sách đối ngoại đối với nhau. Trong ba phạm trù lợi ích, thì lợi ích cốt lõi mà Việt Nam và Ấn Độ xác định trong quan hệ hợp tác chính là lợi ích an ninh - chiến lược trong việc cân bằng với các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc. Những nét tương đồng về bản sắc không chỉ là cơ sở quan trọng củng cố niềm tin chiến lược trong việc nâng cấp quan hệ, mà còn thúc đẩy sự tương hỗ để theo đuổi lợi ích quốc gia của mình. Nhân tố lãnh đạo cũng đóng vai trò quan trọng, có tác động thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.