Một vấn đề phát sinh khi chính phủ tăng chi tiêu hoặc giảm thuế để kích cầu là các biện pháp này lại làm thâm hụt ngân sách. Ngược lại,chính sách tài khóa thắt chặt thông qua việc cắt giảm chi tiêu chính phủ hoặc làm tăng thuế nhằm kiềm chế lạm phát làm giảm thâm hụt ngân sách. Tuy nhiên,chính sách tài khóa chủ động nhằm bình ổn nền kinh tế không phải là nhân tố duy nhất ảnh hưởng đến cán cân ngân sách của mỗi quốc gia trong mỗi thời kỳ. Trong thực tế, cán cân ngân sách có thể thay đổi vì những lý do chẳng liên quan gì đến chính sách tài khóa. Chẳng hạn, với mức chi tiêu cố định là 250 và thuế bằng 25% của thu nhập, thì ngân sách chính phủ sẽ cân bằng khi thu nhập là 1000 như được minh họa trong hình 3.23.Tại những thu nhập thấp hơn 1000, ngân sách sẽ bị thâm hụt và ngược lại, tại những mức thu nhập cao hơn 1000, ngân sách sẽ có thặng dư.
Phân tích ở trên cho thấy bản thân cán cân ngân sách không phải là một chỉ báo tốt về chính sách tài khóa. Khi thấy ngân sách chính phủ bị thâm hụt, chúng ta không vội vã và đi đến kết luận là do chính sách tài khóa đang mở rộng quá mức và từ đó cho rằng điều mà chính phủ nên làm trước mắt là thắt chặt tài khóa. Nếu như trên thực tế,thâm hụt ngân sách xuất hiện do nền kinh tế đang rơi vào một cuộc suy thoái, thì việc thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt sẽ làm giảm tổng chi tiêu và do đó càng đầy nền kinh tế lún sâu hơn vào suy thoái.
Một thước đo tốt hơn về chính sách tài khóa so với cán cân ngân sách thực tế là tính toán ngân sách ở mức toàn dụng nhân công, hay còn gọi là ngân sách cơ cấu mà chúng ta sẽ kí hiệu là BB*. Chỉ tiêu này được tính trên cơ sở ước tính về mức chi tiêu và thu thuế với giả thiết nền kinh tế hoạt động ở mức sản lượng tiềm năng. Kết quả thu được chỉ phụ thuộc vào sự lựa chọn chính sách tài khóa mà không bị ảnh hưởng bởi những biến động kinh tến trong ngắn hạn.
BB* = tY - G
Bây giờ chúng ta sẽ quan tâm đến sự khác nhau giữa cán cân ngân sách thực tế và cán cân ngân sách cơ cấu:
BB-BB* = (tY-G)-(tY*-G) = t(Y-Y*)
Như vậy, cán cân ngân sách thực tế và cán cân ngân sách cơ cấu chỉ khác nhau ở khoản thuế ròng. Cụ thể, nếu sản lượng ở dưới mức tự nhiên,thì thâm hụt ngân sách thực tế sẽ lớn hơn thâm hụt ngân sách cơ cấu. Ngược lại,nếu sản lượng cao hơn mức tự nhiên, thì thặng dư ngân sách thự tế sẽ lớn hơn thặng dư ngân sách cơ cấu. Sự khác nhau giữa cán cân ngân sách thực tế và cán cân ngân sách cơ cấu phản ánh thành tố chu kỳ trong ngân sách và thường được gọi là cán cân ngân sách chu kỳ. Ngân sách chu kỳ phản ánh tác động kinh tế ngắn hạn đến thu nhập và chi tiêu của chính phủ. Khi nền kinh tế rơi vào một cuộc suy thoái, ngân sách sẽ tự động xấu đi do nguốn thu từ thuế giảm trong khi một số khoản mục chuyển giao thu nhập lại tăng. Ngược lại, trong
thời kỳ bùng nổ ngân sách tự động được cải thiện. Công thức trên cho thấy ngân sách chu kỳ sẽ thâm hụt khi sản lượng thấp hơn mức tự nhiên và có thặng dư khi sản lượng cao hơn mức tự nhiên.
Một nguyên nhân khác lý giải tại sao cán cân ngân sách thực tế không phải là một thước đo tốt về chính sách tài khóa liên quan đến sự phân biệt giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế. Trên thực tế, các số liệu về ngân sách chính phủ được công bố coi toàn bộ tiền lãi danh nghĩa mà chính phủ trả cho các khoản nợ tồn đọng là một khoản mục trong chi tiêu chính phủ. Tuy nhiên, khi lạm phát ở mức khá cao,lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế khác nhau đáng kể, nên sẽ có ý nghĩa hơn khi coi lãi suất thực tế nhân với khoản nợ tồn đọng của chính phủ là một khoản mục chi tiêu góp phần vào thâm hụt. Chẳng hạn, nếu lạm phát là 8%, lãi suất danh nghĩa là 10%, thì lãi suất thực tế chỉ là 2%. Thực ra, chi phí thực so với khoản nợ tồn đọng của chính phủ chỉ là 2% bởi vì mặc dù chính phủ phải trả tiền lãi bằng 10% so với vốn vay ban đầu, song dường như nguồn thu về thuế cũng tăng lên cùng với lạm phát ngay cả khi thuế suất không thay đổi, điều này sẽ tạo ra nguồn thu cần thiết để trang trải khoản tiền lãi danh nghĩa cao hơn. Tương tự, theo quan điểm của khu vực tư nhân,mặc dù những người nắm giữ trái phiếu chính phủ nhận được một khoản thu nhập danh nghĩa bằng 10% so với vốn gốc, nhưng thực ra khoản tiền này chỉ mang lại lợi tức thực là 2%, và chính lợi tức thực mới là thước đo thu nhập thực từ việc cho vay và quyết định hành vi của khu vực tư nhân trong việc lựa chọn danh mục đầu tư tối ưu.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Nhân Tố Quyết Định Sự Thay Đổi Của Sản Lượng Cân Bằng
- Tác Động Của Sự Thay Đổi Đầu Tư Đến Sản Lượng Cân Bằng
- Xác Định Thu Nhập Cân Bằng Trong Một Nền Kinh Tế Mở
- Ngân Hàng Trung Ương Và Các Công Cụ Điều Tiết Cung Tiền
- Chính Sách Tiền Tệ Mở Rộng Trong Hệ Trục Mức Giá - Sản Lượng
- Mức Lương Không Linh Hoạt Có Thể Dẫn Tới Thất Nghiệp Không Tự Nguyện
Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.
3.4. TIỀN TỆ VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
3.4.1. Tiền tệ
3.4.1.1. Khái niệm tiền
Trong nền kinh tế hiện đại, ngoài việc sử dụng tiền mặt, người ta còn sử dụng séc hay thẻ tín dụng trong thanh toán. Vậy séc hay thẻ tín dụng có phải là tiền hay không? Để có câu trả lời, chúng ta cần hiểu tiền là gì? Hiểu rò khái niệm tiền là việc làm quan trọng để nắm bắt các nguyên lý kinh tế vĩ mô, nhưng đó không phải là nhiệm vụ đơn giản.
Một cách chung nhất, tiền được định nghĩa là “Bất cứ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán để lấy hàng hóa hay dịch vụ hoặc trong việc hoàn trả các món nợ”.
3.4.1.2. Chức năng của tiền
Để được chấp nhận chung trong việc thanh toán, tiền phải có những chức năng đặc biệt của nó. Nhìn chung, các lý thuyết tiền tệ hiện đại đều nhấn mạnh ba chức năng căn bản của tiền: phương tiện trao đổi, đơn vị hạch toán, và cất trữ giá trị. Ba chức năng này làm cho tiền khác với các tài sản khác, như cổ phiếu, trái phiếu, bất
động sản, tác phẩm nghệ thuật .... Sau đây chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng chức năng của tiền:
- Phương tiện trao đổi
Phương tiện trao đổi là một vật được mọi người chấp nhận để đổi lấy hàng hóa và dịch vụ. Tiền là một phương tiện trao đổi. Khi bạn mua một hàng hóa bất kỳ, chẳng hạn áo sơ mi, chủ cửa hàng trao cho bạn áo sơ mi, còn bạn thì trao cho ông ta tiền. Nhờ có việc chuyển tiền từ người mua cho người bán mà giao dịch được thực hiện. Nếu không có tiền, việc trao đổi hàng hóa trở nên phức tạp và tốn kém hơn nhiều. Chúng ta hãy tưởng tượng trong nền kinh tế không có tiền, một giáo sư kinh tế học muốn uống bia, nhưng chỉ có thể đổi lấy bia bằng bài giảng của mình thì liệu giáo sư này có thỏa mãn được mong muốn đó hay không? Tuy nhiên, trong nền kinh tế tiền tệ ông giáo sư có thể yên tâm giảng dạy kinh tế học và muốn uống bia lúc nào cũng được, vì sẽ nhận được thù lao bằng tiền và có thể sử dụng tiền để mua đồ uống và các thứ khác mà giáo sư có nhu cầu. Quán bia sẽ chấp nhận những tờ giấy đươc quy định là tiền bởi vì họ tin vào những người khác cũng chấp nhận chúng. Như vậy tiền có giá trị bởi vì dân cư nghĩ rằng nó có giá trị.
- Phương tiện cất trữ giá trị
Việc tiền đóng vai trò là phương tiện trao đổi đi liền với tư cách là một phương tiện cất trữ giá trị. Dân chúng sẽ chỉ giữ tiền một khi họ tin rằng nó sẽ tiếp tục có giá trị trong tương lai, do vậy tiền có thể hoạt động với tư cách là phương tiện trao đổi chỉ khi nó cũng đóng vai trò là phương tiện bảo tồn và cất giữ giá trị. Với chức năng này dân chúng có thể lựa chọn giữ một số của cải trực tiếp bằng tiền. Tất nhiên, tiền không phải là phương tiện cất giữ giá trị duy nhất trong nền kinh tế, bởi vì một người có thể chuyển sức mua từ hiện tại đến tương lai bằng cách nắm giữ các tái sản khác. Thuật ngữ “ tài sản” được dùng để chỉ những phương tiện cất trữ giá trị, trong đó có tiền và các tài sản không phải tiền. Tuy nhiên, trong điều kiện có lạm phát, giá trị của tiền giảm theo thời gian. Điều này làm cho tiền trở thành một phương tiện cất trũ giá trị yếu thế hơn so với các tài sản khác.
- Đơn vị hạch toán
Với hai chức năng trên, tiền trở thành một đơn vị hạnh toán rất tiện lợi và hiệu quả vì nó được chấp nhận rộng rãi trong mọi giao dịch. Nọi người sử dụng một đơn vị tiền tệ chung “như đồng tiền của Việt Nam hay đôla Mỹ” để niêm yết giá và ghi các khoản nợ. Khi đi mua hàng, bạn có thể nhìn thấy giá một chiếc sơ mi là 120.000 đồng và bát phở giá 10.000 đồng. Mặc dù có thể nói chính xác rằng giá của chiếc áo bằng 12 bát phở và giá của bát phở bằng 1/12 chiếc áo, nhưng giá không bao giờ được ghi theo cách này. Tương tự, nến bạn vay tiền của ngân hàng, thì số tiền bạn phải hoàn trả trong tương lai sẽ được tính bằng đồng hay đôla, chứ không phải bằng lượng hàng hóa và
dịch vụ. Khi muốn tính toán và ghi chép giá trị kinh tế, chúng ta sử dụng tiền với tư cách là đơn vị hạch toán.
3.4.1.3. Các loại tiền
Trong lịch sử, nhiều thứ đã đóng vai trò của tiền, trong đó có vỏ sò, thuốc lá, các kim loại quý, cũng như tiền giấy và tiền chuyển qua ngân hàng. Galbraith và Salinger trong cuốn “ Everybody guide to economics” chia lịch sử tiền tệ thành ba giai đoạn:
Ở giai đoạn đầu tiên, loài người sử dụng tiền cơ bản hay tiền nguyên thủy (original or basic money). Đó là muối, vỏ sò, kim loại quý hay các hàng hóa cơ bản khác. Khi tồn tại dưới hình thức một hàng hóa có giá trị cố hữu, tiền được gọi là tiền hàng hóa. Thuật ngữ giá trị cố hữu hàm ý hàng hóa đó có giá trị ngay cả khi nó không được sử dụng làm tiền. Một ví dụ về tiền hàng hóa là vàng. Vàng có giá trị cố hữu bởi vì nó được sử dụng trong công nghiệp và chế tác đồ trang sức. Một ví dụ khác về tiền hàng hoá là thuốc lá. Trong Thế chiến II, tù binh ở các trại giam đã trao đổi hàng hoá và dịch vụ với nhau bằng cách sử dụng thuốc lá làm phương tiện cất trữ giá trị, đơn vị hạch toán, phương tiện trao đổi. Tương tự, khi Liên bang Xô Viết bị sụp đổ vào những năm cuối 1980, thuốc lá lại thay thế đồng rúp và nó là loại tiền được ưa thích ở Mátcơva. Trong cả hai trường hợp trên, ngay cả những người không hút thuốc vẫn sẵn sàng chấp nhận thuốc lá trong trao đổi, bởi vì họ biết rằng có thể dùng thuốc lá để mua những hàng hoá và dịch vụ khác.
Ở giai đoạn thứ hai, các chính phủ và ngân hàng trở thành hững nhân tố chính trong việc cung ứng tiền tệ. Nhưng ở giai đoạn này một số hàng hóa cơ bản vẫn được dùng để định lượng sự trao đổi lấy tiền. Do đó, đây là giai đoạn tiền bản vị mà chủ yếu là “bản vị vàng” hay “bản vị bạc”. Trong chế độ bản vị vàng, chính phủ của mỗi nước cố định giá vàng tính bằng đồng tiền trong nước của họ. Chính phủ luôn sẵn sàng mua và bán vàng đúng lượng mà dân cư muốn giao dịch tại mức giá cố định này. Khi đó, khả năng của chính phủ trong việc cung ứng tiền bị hạn chế nghiêm ngặt bởi yêu cầu là chính phủ phải nắm giữ một lượng vàng tương đương trong kho bạc.
Ở giai đoạn thứ ba và là giai đoạn cuối cùng, bản vị kim loại biến mất, tiền trở thành một sáng tạo của các ngân hàng và chính phủ. Tiền không có giá trị thực – như đồng Việt Nam – được gọi là tiền pháp định. Khái niệm pháp định đề cập đến quyết định mang tính pháp lý của Nhà nước và tiền pháp định là loại tiền được tạo ra nhờ một pháp lệnh của chính phủ. Tại sao bạn có thể sử dụng những tờ giấy bạc do ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thanh toán cho hóa đơn của bạn? Câu trả lời là chính phủ Việt Nam đã quy định bằng một pháp lệnh rằng những tờ giấy bạc đó là tiền hợp lệ.
Mặc dù chính phủ là cơ quan đóng vai trò trung tâm trong việc thiết lập và điều hành hệ thống tiền pháp định (ví dụ, truy tố những kẻ làm tiền giả), nhưng để hệ thống
tiền tệ hoạt động thành công, cũng cần có những nhân tố khác nữa. Nói rộng hơn, sự chấp nhận tiền pháp định phụ thuộc nhiều vào kỳ vọng và tập quán xã hội cũng như một pháp lệnh của chính phủ. Trong những năm 1980, chính phủ Liên Xô chưa bao giờ huỷ bỏ đồng rúp, bởi vì nó là đồng tiền chính thức mà chính phủ quy định. Nhưng người dân Mátcơva lại thích chấp nhận thuốc lá (hoặc đôla Mỹ) hơn đồng rúp trong việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ, bởi vì họ tin rằng loại tiền này được những người khác chấp nhận trong tương lai.
3.4.1.4. Đo lường khối lượng tiền
Theo ba chức năng của tiền và cùng với sự phát triển của các tài sản tài chính, việc xác định loại tài sản nào là tiền ngày càng trở lên phức tap. Phải chăng tiền chỉ gồm tiền giấy, tiền xu hay còn gì nữa? Hiện nay, trong các sách giáo khoa và trong thực tiễn, có 3 cách đo lường khối lượng tiền tệ chủ yếu là tiền mặt (M0), tiền giao dịch (M1), và tiền rộng (M2). Mặc dù vậy, cơ cấu các thành phần tạo nên M1 hay M2 cũng không đồng nhất giữa các quốc gia. Có sự khác biệt này chủ yếu là do trình độ phát triển khác nhau của các hệ thống tài chính ở những nước này. Mặc dù có sự khác nhau như vậy, nhưng các thành phần cấu thành M1 hay M2 phải đáp ứng được những chức năng của tiền như đã nêu. Trong phạm vi tập bài giảng này, chúng ta hiểu khái niệm tiền M0, M1, M2, như sau:
- M0 hay tiền mặt: Bao gồm tiền giấy và tiền xu đang lưu hành.
- M1: Bao gồm tiền mặt, các tài khoản tiền gửi có thể rút theo nhu cầu (tài khoản tiền gửi không kỳ hạn).
- M2: Bao gồm M1 và các tài khoản tiền gửi có kỳ hạn.
Người ta chia tiền thành M0, M1 và M2 dựa trên khả năng thanh khoản của các thành phần tạo nên chúng, mà độ thanh khoản của các tài sản tài chính phụ thuộc vào đặc điểm và mức đọ phát triển của hệ thống tài chính. Khả năng thanh toán hay tính hoán đổi của một tài sản đề cập đến mức độ dễ dàng để chuyển tái sản đó thành phương tiện trao đổi của nền kinh tế.
Chúng ta lần lượt xem xét tại sao M0, M1 và M2 được coi là thước đo khối lượng tiền của nền kinh tế. Nhìn chung, tiền mặt có thể được sử dụng trực tiếp, ngay lập tức và không hạn chế cho việc thanh toán. Do đó, tiền mặt được biết đến như là một loại tài sản có độ thanh khoản cao nhất. Các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn cũng được coi là tiền. Tại sao? Trước tiên, chúng ta làm quen với hai công cụ (tài sản) tài chính cơ bản có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đo lường khối lượng tiền tệ: tài khoản tiền gửi không kỳ hạn (gọi tắt là tài khoản không kỳ hạn), tài khoản tiền gửi có kỳ hạn (gọi tắt là tài khoản có kỳ hạn). Với tài khoản không kỳ hạn chúng ta có thể “rút tiền” bất kỳ lúc nào mà không phải chịu bất kỳ chi phí nào. Ngoài ra với tài khoản không kỳ hạn, chúng ta có thể viết séc và sử dụng nó để thanh toán cho các khoản chi tiêu của mình.
Đối với tài khoản có kỳ hạn, về nguyên tắc chúng ta chỉ có thể rút tiền mặt khi đến kỳ hạn, hoặc phải thông báo trước và phải chịu phạt lãi suất. Trước đây, chỉ có tài khoản có kỳ hạn là được hưởng lãi suất. Tuy nhiên, hiện nay, các tài khoản không kỳ hạn cũng được hưởng lãi suất nhưng với mức thấp hơn so với tài khoản có kỳ hạn.
3.4.2. Hệ thống ngân hàng
3.4.2.1. Cơ sở tiền tệ và cung tiền
Nếu bỏ qua sự khác biệt giữa các loại tiền gửi (tức là các định nghĩa khác nhau về khối lượng tiền) và coi chỉ có một loại tiền gửi thống nhất được kí hiệu là D, thì lượng tiền cung ứng hay viết gọn là cung ứng tiền (MS) bao gồm tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng (Cu) cộng với tiền gửi (D):
MS = Cu + D
Chúng ta cần phân biệt cung tiền với cơ sở tiền tệ (Monetary Base- B), tức là lượng tiền do ngân hàng trung ương phát hành. Cơ sỏ tiền tệ tồn tại dưới hai hình thái: tiền mặt ngoài hệ thống ngân hàng (Currency outide banks – Cu) và dự trữ các ngân hàng thương mại (Reserve – R). Do đó, chúng ta có thể viết:
B =Cu + R
Trong các nền kinh tế hiện đại, cung tiền bao giờ cũng lớn hơn cơ sở tiền tệ. Nguyên nhân là do quá trình tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Trong mục tiếp theo, chúng ta sẽ tìm hiểu xem hành vi của các ngân hàng thương mại ảnh hưởng như thế nào đến các cung tiền.
3.4.2.2. Ngân hàng thương mại và quá trình tạo tiền
Ngân hàng thương mại là loại trung gian tài chính quen thuộc nhất đối với mọi người. Nghiệp vụ căn bản nhất của ngân hàng là nhận tiền gửi của người tiết kiệm và cho vay lại số tiền đó. Bên cạnh đó, ngân hàng còn có một vai trò quan trọng thứ hai nữa: ngân hàng làm cho việc mua bán trở nên thuận tiện hơn bằng cách cho phép mọi người viết séc đối với khoản tiền gửi trong ngân hàng. Nói cách khác, ngân hàng giúp tạo ra một tài sản đặc biệt mà mọi người có thể sử dụng như một phương tiện trao đổi. Vai trò cung cấp phương tiện trao đổi là điểm quan trọng phân biệt ngân hàng với các trung gian tài chính khác. Cùng với ngân hàng trung ương, hệ thống ngân hàng thương mại cung cấp các dịch vụ thanh toán và có vai trò quan trọng trong việc quyết định mức cung tiền của nền kinh tế.
Để thấy rò vai trò tạo tiền của hệ thống ngân hàng thương mại, chúng ta sẽ lần lượt xem xét hai tình huống sau:
- Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ 100%
Để xem xét ảnh hưởng của các hoạt động ngân hàng thương mại đến cung tiền, đầu tiên chúng ta hãy tưởng tượng trên thế giới không tồn tại bất kì một ngân hàng nào. Nếu không có ngân hàng trong nền kinh tế, sẽ không có tiền gửi và do đó cung
tiền đơn giản chỉ bằng khối lượng tiền mặt. Điều hoàn toàn tương tự xảy ra nếu như có các ngân hàng và chúng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ 100%. Nói cách khác, các ngân hàng chỉ nhận tiền gửi và đơn giản giữ chúng với tu cách là dự trữ mà không hề cho vay. Nếu công chúng mang toàn bộ tiền mặt đến gửi tại hệ thông ngân hàng thì sẽ không có tiền mặt trong tay công chúng – toàn bộ tiền giấy và tiền xu sẽ được giữ dưới dạng dự trữ - nhưng trái lại lượng tiền gửi đúng bằng khối lượng tiền mặt. Trong điều kiện dự trữ 100%, các ngân hàng không có vai trò gì trong việc thay đổi cung tiền.
- Ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc dự trữ một phần và quá trình tạo tiền
Trong thực tế, các ngân hàng luôn cho vay. Bởi vì các ngân hàng dự tính rằng không phải tất cả những người gửi tiền sẽ rút toàn bộ tiền gửi ngay lập tức và cùng một lúc, họ không cần dự trữ bằng số tiền gửi. Trái lại, họ chỉ giữ một phần số tiền huy động được và cho vay phần còn lại. Hệ thống ngân hàng như vậy được gọi là hệ thống ngân hàng dự trữ một phần.
Để thấy được hệ thống ngân hàng tạo tiền như thế nào, đầu tiên giả định công chúng không giữ tiền mặt và như vậy lượng tiền mặt nằm ngoài hệ thống ngân hàng sẽ bằng 0. Tiếp theo, giả thiết khi các ngân hàng nhận được một khoản tiền gửi, ngân hàng giữ lại 10% dự trữ và cho vay 90% còn lại. Trong trường hợp này, tỉ lệ dự trữ của ngân hàng là 10%. Trong trường hợp tổng quát với tỉ lệ dự trữ là rr thì lượng dự trữ (R) sẽ bằng rr nhân với lượng tiền gửi (D).
Sau đây, chúng ta sử dụng bảng tài khoản chữ T để xem xét sự thay đổi tài sản có và nợ của một ngân hàng (ngân hàng thứ nhất) sau khi nhận được một khoản tiền gửi mới là 1000 triệu đồng do Ngân hàng trung ương mới phát hành. Trước khi ngân hàng thứ nhất cho vay, cung tiền tăng 1000 triệu. Nhưng sau khi ngân hàng này cho vay thì tài khoản của ngân hàng này thay đổi như sau:
Ngân hàng thứ nhất
Tài sản có Tài sản nợ
Dự trữ : 100 Cho vay : 900
Tiền gửi : 1000
Bên phải của tài khoản là tài sản nợ tăng thêm 1000 triệu đồng (số tiền mà ngân hàng nợ người gửi tăng thêm). Bên trái của tài khoản là tài sản cũng tăng thêm 1000 triệu đồng, trong đó ngân hàng bổ xung thêm 100 triệu dự trữ và cho vay thêm 900 triệu. tài sản có và tài sản nợ của ngân hàng luôn bằng nhau. Như vậy cung tiền bây giờ tăng 1900 triệu đồng vì những người gửi tiền vào ngân hàng nắm giữ 1000 triệu tiền gửi không kỳ hạn và người đi vay tiền của ngân hàng nắm giữ 900 triệu đồng tiền mặt. Như vậy, khi ngân hàng chỉ nắm giữ một phần tiền gửi huy động được dưới dạng dự trữ, nó đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán.
Sự tạo tiền không dừng lại ở Ngân hàng thứ nhất. Gỉa sử những người đi vay từ Ngân hàng thứ nhất sử dụng 900 triệu đồng để mua sắm một số vật dụng từ một vài người khác, những người này sau khi nhận được tiền lại quyết định gửi toàn bộ số tiền mặt của mình vào Ngân hàng thứ hai. Ngân hàng này lại giữ 10% (90 triệu đồng) làm dự trữ và cho vay 90% còn lại (810 triệu đồng), cung tiền lại tăng thêm 810 triệu đồng.
Ngân hàng thứ hai
Tài sản có Tài sản nợ
Dự trữ : 90
Tiền gửi :900
Cho vay :810
Quá trình tiếp tục diễn ra: mỗi lần sau khi tiền mặt được gửi vào ngân hàng, nó lại được ngân hàng cho vay một phần. Cứ như vậy lượng tiền trong nền kinh tế ngày càng tăng. Vậy thì cuối cùng có bao nhiêu tiền được tạo ra trong nền kinh tế? Bây giờ chúng ta sẽ cộng các khoản tiền gửi nêu trên lại với nhau:
Số tiền gửi ban đầu = 1000
Số tiền cho vay ra của ngân hàng thứ 1 = 900 [= 1000] Số tiền cho vay ra của ngân hàng thứ 2 = 810 [ = 900]
……………
Tổng lượng tiền tăng lên = 10.000
Như vậy, quá trình tạo tiền này không thể tiếp diễn vô hạn: lượng tiền bổ sung ngày càng giảm dần. Nếu chúng ta cộng tất cả những con số trong ví dụ trên, chúng ta sẽ thấy với 1000 triệu đồng mà Ngân hàng trung ương mới bơm thêm vào lưu thông lượng tiền trong nền kinh tế tăng 10.000 triệu đồng. Lượng tiền trong nền kinh tế tăng thêm do hoạt động của hệ thống ngân hàng tạo ra từ một đồng mà Ngân hàng trung ương bơm vào lưu thông được gọi là số nhân tiền. Như vậy, trong trường hợp tỉ lệ dự trữ 10% và không ai giữ tiền mặt, khi cơ sở tiền tệ tăng thêm 1000 triệu đồng đã làm cung tiền tăng 10.000 triệu đồng, và như vậy số nhân tiền là 10 (bằng 1 chia cho tỉ lệ dự trữ).
3.4.2.3. Mô hình về cung tiền
Bây giờ chúng ta xem xét hiện tượng mở rộng lượng tiền so với cơ sở tiền tệ do hoạt động của các ngân hàng dự trữ một phần một cách thận trọng hơn. Xuất phát từ các phương trình định nghĩa cung tiền và cơ sở tiền tệ mà chúng ta đã đề cập ở trên:
B = Cu + R MS = Cu + D