Đồng nhất thức này là khái niệm quan trọng thứ hai của chúng ta. Nó cho phép chúng ta giải thích đường tổng chi tiêu trong hình 3.9 theo hai cách. Thứ nhất, chúng ta có thể nói rằng đường tổng chi tiêu phản ánh tổng chi tiêu tại mỗi mức thu nhập quốc dân. Thứ hai, chúng ta cũng có thể nói đường tổng chi tiêu phản ánh mức sản lượng quốc dân. Hai phạm trù sản lượng quốc dân và thu nhập quốc dân được sử dụng để thay thế nhau trong các phân tích kinh tế vĩ mô.
b. Sản lượng cân bằng
Thông thường doanh nghiệp chỉ sản xuất một hàng hóa nào đó khi họ tin rằng nó sẽ được thị trường chấp nhận. Điều này có nghĩa tổng sản lượng được sản xuất bởi mọi doanh nghiệp phải phù hợp với tổng cầu về sản lượng. Đó chính là khái niệm cần thiết thứ ba, và nó có thể được diễn đạt theo cách khác. Tại trạng thái cân bằng, tổng chi tiêu, được kí hiệu là AE, cần phải bằng tổng sản lượng (GDP). Vì tổng sản lượng bằng thu nhập quốc dân (Y) chúng ta có phương trình đơn giản sau:
AE = GDP =Y
Trạng thái cân bằng đạt được tại điểm trên dường tổng chi tiêu thỏa mãn điều kiện tổng chi tiêu bằng sản lượng. Đó chính là giao điểm của đường tổng chi tiêu và đường 45o. Giá trị tương ứng của tổng sản lượng tại trạng thái cân bằng được ký hiệu là Y0.
Việc xác định thu nhập cân bằng trên cơ sở liên kết thu nhập (sản lượng) với tổng chi tiêu được gọi là cách tiếp cận thu nhập - chi tiêu. Chúng ta có thể thấy Y0 là mức thu nhập cân bằng theo hai cách. Cách thứ nhất là chúng ta phải chỉ ra chỉ có một điểm thỏa mãn hai điều kiện của trạng thái cân bằng. Tại trạng thái cân bằng, mọi cái sản xuất ra đều được mua. Như vậy, tổng chi tiêu phải bằng sản lượng (thu nhập quốc dân), như được biểu diễn bằng đường 45o. Mặt khác, tại trạng thái cân bằng, tổng mức chi tiêu cũng cần phải là cái mà các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước ngoài muốn mua tại mức thu nhập quốc dân đó, điều này được biểu diễn bằng đường tổng chi tiêu.
Cách thứ hai là xem xét điều gì xảy ra tại mức thu nhập khác Y0. Chẳng hạn hiện tại mức sản xuất của nền kinh tế là Y1>Y0. Khi đó, đường tổng chi tiêu nằm dưới đường 45o. Cái mà các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước ngoài
muốn mua tại mứcthu nhập quốc dân đó,được biểu thị bằng đường tổng chi tiêu, nhỏ hơn thu nhập (sản lượng) quốc dân được biểu thị bằng đường 45o. Có quá nhiều hàng hóa được sản xuất ra so với mức mà mọi người muốn mua. Đối với những hàng hóa khôn thể dự trữ được như rau xanh và các thực phẩm tươi sống khác, chúng sẽ bị hư hỏng nếu không bán được. Đối với những hàng hóa có thể dự trữ được, chúng sẽ được giữ lại trong kho nhưng doanh nghiệp sẽ bị tổn thất do vốn bị ứ đọng và chi phí bảo
quản tăng lên.
Các nhà kinh tế phân biệt hàng tồn kho theo kế hoạch và hàng tồn kho ngoài kế hoạch. Các doanh nghiệp chủ động giữ một số hàng trong kho bởi vì điều này đảm bảo cho việc kinh doanh có hiệu quả hơn. Chẳng hạn các cửa hàng bán lẻ luôn phải có sẵn hàng hóa để chào hàng. Các doanh nghiệp chế tạo giữ hàng tồn kho dưới dạng phụ tùng thay thế để giảm bớt thời gian ngừng dây chuyền sản xuất do máy hỏng. Hàng trong kho theo kế hoạch được coi là một khoản mục đầu tư theo kế hoạch, và việc bổ sung thêm được tính là một phần của chi tiêu đầu tư theo kế hoạch thuộc tổng chi tiêu. Hàng tồn kho ngoài kế hoạch (UI: Unplanned Inventory) đơn giản là số hàng hoá mà các doanh nghiệp sản xuất ra nhưng không bán được. Trong hình 3.9, tại Y1 hàng tồn kho ngoài kế hoạch ngày càng tích tụ do các doanh nghiệp đang sản xuất nhiều hơn so với lượng hàng có thể bán được. các doanh nghiệp phản ứng bằng cách cắt giảm mức sản xuất cho đến khi đạt được Y0. Ngược lại, tại những mức thu nhập nhỏ hơn Y0 như Y2, thì các hộ gia đình, doanh nghiệp, chính phủ và người nước ngoài chi tiêu nhiều hơn thu nhập (sản lượng) quốc dân. Nói cách khác, họ mua nhiều hơn mức mà nền kinh tế đang sản xuất. các doanh nghiệp phải đưa cả hàng đang giữ trong kho theo kế hoạch ra để bán. Khi hàng trong kho ngày càng cạn kiệt, các doanh nghiệp cần tăng mức sản xuất cho đến khi trạng thái cân bằng được khôi phục với sản lượng bằng Y0.
Như vậy, rò ràng Y0 là mức sản lượng cân bằng duy nhất tại đó mọi nhu cầu đều
được thỏa mãn và toàn bộ hàng hóa sản xuất ra đều được bán hết.
c. Sự dịch chuyển của đường tổng chi tiêu
Đường tổng chi tiêu có thể dịch chuyển khi có những thay đổi trong nền kinh tế làm cho các hộ gia đình, doanh nghiệp và chính phủ quyết định chi tiêu nhiều hơn hoặc ít hơn tại mỗi mức thu nhập. Hình 3.10 biểu thị điều gì xảy ra khi tổng chi tiêu tăng thêm một lượng là Z tại mỗi mức thu nhập quốc dân. Đường tổng chi tiêu mới kí hiệu là AE1. Sản lượng cân bằng tăng từ Y0 lên Y1. Như chúng ta dễ dàng nhận thấy sự gia tăng của sản lượng cân bằng lớn hơn so với sự thay đổi ban đầu của tổng chi tiêu
Z. Keynes dùng thuật ngữ số nhân chi tiêu để mô tả hiện tượng này. Số nhân chi tiêu
(m) cho biết sự thay đổi của sản lượng cân bằng gây ra bởi sự thay đổi một đơn vị trong tổng chi tiêu.
m Y Y1 Y0
Z Z
Hình 3.10 cho thấy số nhân chi tiêu hay mức độ thay đổi sản lương cân bằng so với Z hoàn toàn phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng chi tiêu. Trong phần B của hình 7-3, đường tổng chi tiêu dịch chuyển lên trên cùng một lượng giống như trong phần A của hình 7-3, tuy nhiên do đường tổng chi tiêu thoải hơn nên sản lượng cân bằng tăng ít hơn.
AE
AE
E
Z
E0
4455
AE
E
Z
E0
45O
AE AE
AE
0 Y Y1 Y (A)
0 Y Y1 Y (B)
Hình 3.10: Các nhân tố quyết định sự thay đổi của sản lượng cân bằng
d. Công thức tính sản lượng cân bằng
Chúng ta có thể mô tả trạng thái cân bằng thông qua phân tích đại số đơn giản.
Phương trình biểu diễn đường tổng chi tiêu có thể viết như sau:
AE =A + Y (1)
trong đó, A là hệ số chặn của đường tổng chi tiêu phản ánh phần của tổng chi tiêu không phụ thuộc vào mức thu nhập quốc dân và được gọi là chi tiêu tự định (giá trị của tổng chi tiêu khi Y=0); và α là độ dốc của đường tổng chi tiêu (AE tăng một lượng là α khi Y tăng một đơn vị). Phân tích ở trên cho thấy đường tổng chi tiêu thoải hơn đường 45o. Điều này hàm ý α nằm trong khoảng 0 và 1. Trạng thái cân bằng đòi hỏi tổng chi tiêu bằng tổng thu nhập, tức là:
AE = Y (2)
Thế phương trình (2) vào phương trình (1) chúng ta được
Y = A + α Y
Giá trị của Y tại trạng thái cân bằng tính được như sau:
Y =
Một sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu ứng với sự gia tăng của A, ví dụ tới A+1. Khi đó Y tăng một lượng là 1/(1- α), được gọi là số nhân chi tiêu. Như vậy, công thức tổng quát xác định giá trị của số nhân chi tiêu là:
m =
Bởi vì nhỏ hơn 1, nên 1/(1- α)>1. Ví dụ, nếu =0,9, thì 1- α = 0,1 và m=1/(1- α) = 10, do đó một sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu 1 đơn vị sẽ làm tăng Y thêm 10 đơn vị.
Tóm lại, chúng ta có thể viết lại mô hình xác định sản lượng cân bằng theo cách tiếp cận thu nhập - chi tiêu như sau: Y = m . A
Phương trình này cho thấy giá trị sản lượng cân bằng phụ thuộc vào hai tham số: tổng chi tiêu tự định A và số nhân chi tiêu m, trong khi giá trị của m lại phụ thuộc vào độ dốc của đường tổng chi tiêu α. Tương tự, mức độ thay đổi của sản lượng cân bằng phụ thuộc vào hai tham số: mức độ thay đổi của tổng chi tiêu tự định A và giá trị của số nhân chi tiêu m:
Y = m A
3.3.2.2. Mô hình xác định sản lượng trong nền kinh tế giản đơn
Chúng ta vừa giới thiệu hai nguyên lý trung tâm của cách tiếp cận thu nhập - chi tiêu: (1) sự dịch chuyển của đường tổng chi tiêu quyết định sự thay đổi mức sản lượng cân bằng của nền kinh tế; và (2) sự thay đổi chi tiêu tự định có ảnh hưởng khuyếch đại theo số nhân đến sản lượng cân bằng và giá trị của số nhân tăng lên khi đường chi tiêu trở nên dốc hơn.
Có hai câu hỏi được đặt ra. Câu hỏi thứ nhất là: điều gì quyết định độ dốc của đường tổng chi tiêu, tức là mức độ tăng của tổng chi tiêu khi thu nhập tăng một đơn vị? Như chúng ta đã thấy, độ dốc của đường tổng chi tiêu càng lớn thì sự gia tăng của sản lượng gây ra do một sự dịch chuyển nhất định lên phía trên của đường tổng chi tiêu sẽ càng lớn. Câu hỏi thư hai là: Điều gì làm cho đường tổng chi tiêu dịch chuyển? và nếu như có thể thì chính phủ cần làm gì để dịch chuyển đường này? Khả năng can thiệp của chính phủ là một vấn đề quan trọng. Nếu chính phủ có thể làm tăng mức sản lượng cân bằng thông qua sự dịch chuyển lên trên của đường tổng chi tiêu, thì chính phủ cũng có thể làm tăng việc làm và giảm thất nghiệp trong nền kinh tế.
Để giải đáp các câu hỏi này, chúng ta cần phải xem xét các thành tố của tổng chi tiêu một cách chi tiết bao gồm: bao gồm C - chi tiêu cho tiêu dùng, I - chi tiêu đầu tư, G là chi tiêu chính phủ, và NX là xuất khẩu ròng, chúng ta có thể tổng hợp các thành tố của tổng chi tiêu trong phương trình sau:
AE = C + I + G + NX
Trong phần này, chúng ta bắt đầu với một nền kinh tế giản đơn chỉ bao gồm hai khu vực là hộ gia đình và doanh nghiệp. Sự tham gia của chính phủ và những tương tác với thế giới bên ngoài sẽ được giới thiệu ở phần sau.
a. Tiêu dùng
Nhân tố quan trọng nhất quyết định tiêu dùng là thu nhập. Tính trung bình, các gia đình có thu nhập cao hơn tiêu dùng nhiều hơn. Bảng 3.2 biểu diễn mối quan hệ giữa tiêu dùng và thu nhập của một hộ gia đình giả định.
Bảng 3.2: Mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng
Tiêu dùng (đồng) | |
500000 | 600000 |
1000000 | 1050000 |
2000000 | 1950000 |
3000000 | 2850000 |
Có thể bạn quan tâm!
- Những Vấn Đề Phát Sinh Khi Đo Lường Chi Phí Sinh Hoạt
- Sự Dịch Chuyển Của Đường Tổng Cầu
- Sự Dịch Chuyển Của Đường Tổng Cầu Khi Nền Kinh Tế Còn Nhiều Nguồn Lực Chưa Được Sử Dụng
- Tác Động Của Sự Thay Đổi Đầu Tư Đến Sản Lượng Cân Bằng
- Xác Định Thu Nhập Cân Bằng Trong Một Nền Kinh Tế Mở
- Ngân Hàng Thương Mại Và Quá Trình Tạo Tiền
Xem toàn bộ 210 trang tài liệu này.
Hình 3.11 biểu diễn thông tin trong bảng 3.2 trên hệ trục tọa độ, với số lượng tiêu dùng trên trục tung và thu nhập trên trục hoành. Đường này dốc lên chỉ ra rằng tiêu dùng của hộ gia đình này tăng khi thu nhập tăng. Mối quan hệ giữa tiêu dùng và thu nhập khả dụng được gọi là hàm tiêu dùng. Mỗi hộ gia đình có dạng hàm tiêu dùng khác nhau bởi vì họ có sở thích và hoàn cảnh gia đình khác nhau, nhưng dạng biểu diễn trong bảng 3.2 và hình 3.11 là điển hình.
Hàm tiêu dùng
Tiêu dùng
28,5
19,5
10,5
0 10 20 30 Thu nhập
Hình 3.11: Hàm tiêu dùng của một hộ gia đình
Trong kinh tế vĩ mô, chúng ta quan tâm đến hàm tổng tiêu dùng, giữa mối quan hệ giữa tổng tiêu dùng và tổng thu nhập. Tổng tiêu dùng ở đây được hiểu là tổng tiêu dùng của tất cả các hộ gia đình trong nền kinh tế. Thước đo thu nhập ở đây chính là thu nhập khả dụng, tức là phần thu nhập còn lại sau khi các hộ gia đình nộp thuế. Tuy nhiên, tạm thời chúng ta giả thiết là không có chính phủ, khi đó thu nhập khả dụng bằng thu nhập quốc dân (Yd ≡ Y). Nếu như tiêu dùng của mỗi hộ gia đình điển hình tăng khi thu nhập tăng thì tổng tiêu dùng cũng tăng khi tổng thu nhập của nền kinh tế
tăng. Mối quan hệ giữa tổng tiêu dùng và thu nhập quốc dân được vẽ trên hệ trục tọa độ trong hình 3.12.
Xu hướng tiêu dùng cận biên
Lượng tiêu dùng tăng lên khi thu nhập khả dụng tăng 1 đơn vị được gọi là xu hướng tiêu dùng cận biên (Marginal Propensity to Consume- MPC). Trong hàm tiêu dùng giả định được minh họa trong hình 3.12, xu hướng tiêu dùng cận biên là 0,9: khi thu nhập khả dụng tăng 1 tỷ đồng, thì tổng tiêu dùng tăng thêm 900 triệu đồng.
Độ dốc của đường tổng tiêu dùng cung cấp cho chúng ta một thông tin quan trọng. Nó chỉ ra tổng tiêu dùng (dọc theo trục tung) tăng bao nhiêu với mỗi đơn vị tổng thu nhập khả dụng (dọc theo trục hoành) tăng lên. Nói một cách khác, độ dốc của hàm tổng tiêu dùng chính là xu hướng tiêu dùng cận biên. Trong hình 3.11 và hình 3.12, thực tế là tiêu dùng tăng khi thu nhập tăng được phản ánh bằng một đường tiêu dùng dốc lên, và xu hướng tiêu dùng cận biên chính là độ dốc của đường này. Xu hướng tiêu dùng cận biên càng lớn thì đường tiêu dùng càng dốc.
Đường tiêu dùng mới
Đường tiêu dùng ban đầu
Tiêu dùng tự định
0
Tiêu dùng, C
Thu nhập, Y
Hình 3.12: Hàm tiêu dùng của nền kinh tế
Hình 3.12 biểu diễn cả sự dịch chuyển lên trên của đường tiêu dùng. Đó là do hệ số chặn - mức tiêu dùng ngay cả khi thu nhập khả dụng bằng không- tăng lên. Phần tiêu dùng không phụ thuộc vào thu nhập được gọi là tiêu dùng tự định (autonomous consumeption). Với sự dịch chuyển như được vẽ trong hình 3.12, xu hướng tiêu dùng cận biên không thay đổi, tức là độ dốc của đường tiêu dùng như cũ. Đôi khi cả tiêu dùng tự định và xu hướng tiêu dùng cận biên có thể cùng thay đổi.
Như thông lệ, chúng ta cần thận trọng phân biệt giữa sự trượt dọc trên một đường tiêu dùng- sự thay đổi tiêu dùng do thu nhập khả dụng thay đổi; và sự dịch chuyển của đường tiêu dùng tại mỗi mức thu nhập cho trước.
Hàm tiêu dùng có thể được viết dưới dạng toán học như sau:
C = a + Yd
Trong đó C là tiêu dùng, a là tiêu dùng dự định, MPC là xu hướng tiêu dùng cận biên, và Yd là thu nhập khả dụng.
Xu hướng tiết kiệm cận biên
Các cá nhân không chỉ tiêu dùng mà còn tiết kiệm từ mỗi đơn vị thu nhập khả dụng bổ sung, do đó tiết kiệm và tiêu dùng là hình ảnh phản chiếu của nhau. Đường tiết kiệm có thể xây dựng từu đường tiêu dùng như được minh họa trong hình 3.13. Tại mức thu nhập khả dụng bằng không, tiêu dùng có giá trị là a và tiết kiệm sẽ có giá trị là –a. Tại mức thu nhập khả dụng YA, thu nhập vừa đủ trang trải chi tiêu cho tiêu dùng (Yd = C), và do đó tiết kiệm bằng 0. Hộ gia đình không có tích lũy cho tương lai nhưng cũng không phải đi vay hay dùng của cải đã tích lũy được để trang trải cho mức tiêu dùng hiện tại. các nhà kinh tế học thường gọi đó là điểm vừa đủ.
Theo định nghĩa thu nhập khả dụng bằng tiêu dùng cộng tiết kiệm nên khi thu nhập khả dụng tăng 1 đơn vị, nếu tổng tiêu dùng tăng 0,9, thì tổng tiết kiệm sẽ tăng 0,1
Đường 45o
C
A
1
MPC
S
MPS
YA
Y
C, S
a
0
-a
Hình 3.13: Đường tiêu dùng và đường tiết kiệm
Mức tiết kiệm bổ sung từ một đơn vị thu nhập khả dụng tăng thêm được gọi là xu hướng tiết kiệm cận biên (MPS). Tổng của xu hướng tiêu dùng cận biên và xu hướng tiết kiệm cận biên luôn bằng 1:
MPC + MPS = 1
Xu hướng tiêu dùng cận biên càng lớn thì xu hướng tiết kiệm cận biên càng nhỏ và ngược lại.
b. Đầu tư
Bây giờ chúng ta chuyển sang thành tố quan trọng thứ hai của tổng chi tiêu - đầu tư. So với tiêu dùng, đầu tư chiếm một tỷ trọng khiêm tốn hơn. Trong những năm gần đây đầu tư của Việt Nam thường chiếm khoảng 35% GDP. Tuy nhiên, đầu tư biến
động rất mạnh trong chu kỳ kinh doanh. Nhìn chung, đầu tư giảm ngay trước khi và trong thời kỳ suy thoái và có xu hướng tăng lên vào đầu kỳ tăng trưởng. Lịch sử của mọi nền kinh tế thị trường đều cho thấy đầu tư là một biến kinh tế rất nhạy cảm. Đầu tư thay đổi mạnh từ năm này qua năm khác, và thường được coi là phụ thuộc âm vào lãi suất thực tế vì lãi suất thực tế đóng vai trò là chi phí đầu tư. Tuy nhiên bây giờ chúng ta tập trung vào mối quan hệ giữa tổng chi tiêu và thu nhập quốc dân như được mô tả bởi đường tổng chi tiêu, còn lãi suất được coi là cho trước. Chúng ta giả thiết mức đầu tư không liên quan đến mức thu nhập hiện tại của nền kinh tế. Giả thiết này được đưa ra chủ yếu nhằm làm cho việc phân tích trở nên đơn giản hơn, tuy nhiên nó cũng phản ánh quan điểm cho rằng đầu tư trước hết được quyết định bởi dự tính của doanh nghiệp về triển vọng kinh tế tương lai. Vì thế, mức đầu tư ít chịu ảnh hưởng bởi những điều đang diễn ra và cụ thể nó ít bị ảnh hưởng bởi mức thu nhập quốc dân hiện tại (xem bảng 3.3).
c. Sản lượng cân bằng
Bây giờ chúng ta có thể phân tích sản lượng cân bằng trong một nền kinh tế giản đơn không có chính phủ và thương mại quốc tế. Khi đó, tổng chi tiêu chỉ bao gồm tiêu dùng và đầu tư.
Bảng 3.3: Các thành tố của tổng chi tiêu
Đơn vị: Tỷ đồng
C | I | Tổng chi tiêu | |
50 | 70 | 25 | 95 |
100 | 115 | 25 | 140 |
150 | 160 | 25 | 180 |
200 | 205 | 25 | 230 |
250 | 250 | 25 | 275 |
350 | 340 | 25 | 365 |
500 | 475 | 25 | 500 |
750 | 700 | 25 | 725 |
1000 | 925 | 25 | 950 |
Bảng 3.3 sử dụng hàm tiêu dùng có dạng C = 25 + 0,9Yd và mức đầu tư cố định là 25 tỷ. Bởi vì chúng ta đã giả thiết là không có chính phủ, nên thu nhập khả dụng bằng thu nhập quốc dân. Bảng 3.3 biểu thị mức tổng chi tiêu tương ứng với các mức thu nhập quốc dân khác nhau. Tổng chi tiêu là tổng của tiêu dùng và đầu tư được ghi ở cột thứ tư của bảng.