Phân Loại Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Sự Hình Thành Và Phát Triển Kiểm Toán Hoạt Động


dụng nguồn lực công không đúng mục đích, kém hiệu quả của các cơ quan nhà nước hoặc đơn vị cung cấp dịch vụ công sẽ xuất hiện nhu cầu đổi mới. Một số quốc gia thuộc khối OECD đã ứng dụng nguyên tắc quản lý trong lĩnh vực tư sang lĩnh vực công được gọi là mô hình quản trị công mới (NPM). Theo Hood (1995), ban đầu việc ứng dụng mô hình này nhằm mục đích giảm chi phí và ngăn chặn tham nhũng, quan liêu nhưng sau đó được mở rộng sang nâng cao hiệu quả và hiệu lực trong lĩnh vực quản trị công. Theo đó, các SAI cũng bắt đầu thực hiện kiểm toán hoạt động nhằm đo lường kết quả đầu ra so với đầu vào và đánh giá tính hiệu quả và hiệu lực trong lĩnh vực quản trị công và đã đạt được nhiều thành công như Hoa Kỳ, Anh, Úc và New Zealand. Vì vậy, mô hình logic Hình 2.1 không những chỉ ra mối tương quan giữa cải cách quản trị công với sự hình thành kiểm toán hoạt động mà còn giải thích được kiểm toán hoạt động được thực hiện như thế nào.

Thứ hai, kiểm toán hoạt động cũng như mọi hoạt động khác trong đời sống xã hội có đầu vào là các yếu tố như cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, năng lực KTV...,thông qua việc tổ chức thực hiện kiểm toán (quy trình kiểm toán) nhằm đạt được đầu ra chính là các báo cáo kiểm toán và mục đích của cuộc kiểm toán cần hướng tới đó chính là kết quả đạt được (tác động từ kết quả kiểm toán). Đặt mô hình logic trong bối cảnh lĩnh vực công, sẽ xuất hiện thêm yếu tố nhu cầu. Tùy thuộc vào nhu cầu, các SAI sẽ lựa chọn loại hình kiểm toán hoạt động phù hợp với đối tượng kiểm toán lựa chọn, chẳng hạn kiểm toán hiệu quả, kiểm toán giá trị của tiền, kiểm toán hiệu lực chương trình, kiểm toán hiệu năng quản lý... Mô hình logic Hình 2.1 không những giúp giải thích cách thức tiến hành kiểm toán hoạt động tại các quốc gia được khảo sát mà còn chỉ rõ mô hình phát triển kiểm toán hoạt động được vận hành như thế nào. Nếu cầu về kiểm toán hoạt động là khắc phục yếu kém, lãng phí, các SAI cần phải triển khai hoạt động kiểm toán để tư vấn giúp đơn vị được kiểm toán cải tiến hiệu quả hoạt động (thông thường nhu cầu này đến từ chính đơn vị được kiểm toán). Trái lại, nếu nhu cầu là xem xét trách nhiệm người quản lý hoặc người đứng đầu đơn vị trong việc phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực công thì kết quả kiểm toán phải hướng cung cấp thông tin cho bên thứ ba liên quan hơn là đơn vị được kiểm toán và lúc này mục tiêu cuộc kiểm toán là nhằm đạt được trách nhiệm


giải trình. Tuy nhiên, việc theo đuổi mục đích nào còn phụ thuộc vào khả năng của SAI. Không phải SAI nào cũng có đủ khả năng để đáp ứng nhiệm vụ mới này do vậy, họ cũng phải thay đổi để thực hiện những chức năng, nhiệm vụ mới mà công chúng đòi hỏi. Kết quả thực hiện và những giá trị mà các SAI tạo ra sẽ góp một phần trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội đang tồn tại. Mức độ và khả năng giải quyết được các vấn đề kinh tế, xã hội thông qua những đóng góp của các SAI sẽ quyết định vai trò và sự phát triển của các SAI.

Các quốc gia đã phát triển khá thành công loại hình kiểm toán hoạt động, hầu hết là các quốc gia phát triển, đã thực hiện cải cách quản trị công theo mô hình quản trị công mới (Anh, Hoa kỳ, Úc, New Zealand...). Việt Nam là quốc gia đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy nhiên, so với các quốc gia phát triển thì Việt Nam đang trong quá trình cải cách hoàn thiện hệ thống luật pháp, đổi mới thể chế kinh tế thị trường, cải cách quản trị công đang trong giai đoạn đầu (cải cách hành chính công) nhằm khắc phục thực trạng yếu kém, lãng phí trong phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực công được ghi nhận hầu hết trong các lĩnh vực xây dựng, giao thông, y tế, giáo dục, doanh nghiệp nhà nước...Vì vậy, cầu phát triển loại hình kiểm toán này khá lớn. Tuy nhiên, khả năng cung kiểm toán hoạt động còn hạn chế, kết quả kiểm toán hoạt động đạt được chưa tương xứng với yêu cầu và mong đợi hợp lý từ xã hội. Vậy nhân tố nào ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam. Trong các nghiên cứu trước trên thế giới, nghiên cứu sử dụng khung phân tích của Pollitt & cộng sự (1999) (Mô hình đầu vào - đầu ra Hình 2.2) kết hợp với các nhân tố cấu thành nên mô hình khái niệm Hình 2.1 nhằm tìm hiểu và giải thích xem kiểm toán hoạt động ở Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi nhân tố nào (các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội hay mô hình quản trị công Việt Nam đang áp dụng hoặc khả năng của SAV...). Do vậy, tác giả sẽ kế thừa nghiên cứu của Pollitt & cộng sự (1999) làm cơ sở cho phần nghiên cứu tiếp theo của Luận án vì các lý do sau: Một là, áp dụng khung phân tích trong nghiên cứu của Pollitt & cộng sự (1999) trong bối cảnh Việt Nam có thể giúp giải thích tại sao một số quốc gia chưa cải cách quản trị công theo xu hướng này vẫn có thể phát triển kiểm toán hoạt động và thành công trong khi một số khác, nhất là các quốc gia đang


phát triển thì ngược lại. Hai là, định hình xu hướng lựa chọn chiến lược phát triển kiểm toán hoạt động tại mỗi quốc gia trong từng giai đoạn. Chẳng hạn, khung phân tích đã chỉ rõ việc lựa chọn chiến lược phát triển phụ thuộc vào những yêu cầu khác nhau đến từ các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp như ở Hoa Kỳ, hầu hết các cuộc kiểm toán hoạt động thực hiện theo yêu cầu của Quốc hội, trong khi đó ở Anh khoảng 50% số cuộc kiểm toán do NAO lựa chọn và 50% số cuộc kiểm toán thực hiện theo yêu cầu từ Quốc hội hoặc Chính phủ. Áp dụng khung phân tích này trong bối cảnh Việt Nam nhằm cung cấp bằng chứng hoặc bổ sung hoặc bác bỏ nhận định từ các nghiên cứu trước khi cho rằng, không có sự hội tụ trong việc phát triển kiểm toán hoạt động tại các quốc gia.

2.4.2. Thiết kế khung phân tích cho nghiên cứu

Khung phân tích của Luận án sẽ dựa trên các nghiên cứu trước liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động chẳng hạn Warning & Morgan 2007; Albert & cộng sự 2009; Lonsdale & cộng sự 2011; Put & Turksema 2011; Hui Fan 2012; Ferdous 2012; Alireza Khalili & cộng sự 2012…, Các nhân tố này được phân loại dựa trên mô hình khái niệm và mô hình đầu vào - đầu ra do Pollitt & cộng sự (1999) thiết lập.

Theo đó, các nhóm nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam thành bốn nhóm chính cụ thể:

(i) Nhân tố thứ nhất là nhân tố kinh tế, chính trị và xã hội: Đây là các nhóm nhân tố được tổng kết trong các nghiên cứu của Nath (2011). Các nghiên cứu cho thấy việc lựa chọn chủ đề và thiết lập các mục tiêu kiểm toán phù hợp (là các yếu tố cấu thành nên kiểm toán hoạt động) chịu ảnh hưởng bởi nhu cầu kiểm toán hoạt động xuất hiện từ bên ngoài (yêu cầu quốc hội, chính phủ và công chúng nói chung) đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải giải quyết, khắc phục các vấn đề này hoặc nhu cầu từ bên trong của các SAI nhằm thực hiện chức năng nhiệm vụ được giao hoặc đáp ứng mong đợi từ người sử dụng. Theo đó, tác giả phân loại chúng là các nhân tố kinh tế, chính trị và xã hội ký hiệu là (A) trong Bảng 2.1;

(ii) Nhóm nhân tố thứ hai gọi chung là yếu tố đầu vào trong mô hình logic. Có 05 nhóm nhân tố cấu thành nên khái niệm kiểm toán hoạt động gồm địa vị pháp


lý của SAI, thẩm quyền của SAI, năng lực KTV (trình độ và kỹ năng KTV) và khả năng triển khai kiểm toán hoạt động của SAI. Trong đó, hai nhóm nhân tố đầu thuộc về nhân tố tiền đề cho việc xuất hiện loại hình kiểm toán này. Trình độ, kỹ năng KTV và khả năng triển khai kiểm toán hoạt động của SAI sẽ quyết định trình độ phát triển kiểm toán hoạt động. Vì vậy, ba nhóm nhân tố này được sử dụng để phân loại trong mô hình phát triển kiểm toán hoạt động. Chúng được ký hiệu là (B) trong Bảng 2.1;

(iii) Nhóm nhân tố thứ ba gọi chung là yếu tố “hoạt động” chính là quy trình kiểm toán hoạt động được tổ chức thực hiện trong mỗi SAI. Có 04 nhóm nhân tố cấu thành nên khái niệm kiểm toán hoạt động được phân loại trong nghiên cứu của Pollitt & cộng sự (1999), chúng có thể thay đổi thích ứng đối với từng chủ đề kiểm toán hoặc mục tiêu cần đạt được trong mỗi cuộc kiểm toán, vì vậy chúng chịu ảnh hưởng nhiều từ đặc điểm hoạt động của đối tượng được kiểm toán. Vì vậy, nhân tố đặc điểm hoạt động của đối tượng kiểm toán được phân loại tương ứng với quy trình hoạt động trong mô hình logic, ký hiệu là (C) trong Bảng 2.1;

(iv) Nhóm nhân tố thứ tư gọi chung là yếu tố đầu ra và kết quả đạt được. Đầu ra của một quy trình kiểm toán bao gồm báo cáo kiểm toán và tác động của KTV trong quá trình thực hiện kiểm toán đến đơn vị được kiểm toán. Trong khi đó, kết quả đạt được phụ thuộc vào báo cáo kiểm toán, tác động của các bên liên quan đến việc thực hiện các kiến nghị kiểm toán và ngược lại tác động của các bên liên quan đến các SAI trong việc thực hiện tiếp tục nhiệm vụ kiểm toán của mình. Cả ba nhân tố này và mối quan hệ giữa chúng cấu thành nên khái niệm kiểm toán hoạt động. Việc theo đuổi nâng cao chất lượng, hiệu quả hay sự hữu hiệu của kiểm toán hoạt động trong từng cuộc kiểm toán ngoài việc phụ thuộc vào các vấn đề kinh tế, chính trị và xã hội, việc lựa chọn chủ đề, mục tiêu kiểm toán, quy trình kiểm toán, năng lực KTV, khả năng triển khai kiểm toán hoạt động còn phụ thuộc vào quan điểm phát triển kiểm toán hoạt động tại mỗi SAI, ký hiệu là D trong Bảng 2.1.


Bảng 2.1. Phân loại nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động


Các yếu tố trong mô hình logic

Phân loại các nhân tố cấu thành kiểm toán hoạt động theo Pollitt & cộng sự ( 1999)

Phân loại các nhân tố dựa trên tổng hợp kết quả từ các nghiên cứu trước

Kinh tế, chính

trị, xã hội

(1) Các chủ đề phù hợp cho việc triển

khai loại hình kiểm toán hoạt động

(A) 03 nhóm nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội thúc đẩy việc hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động

Mục đích, mục tiêu

(2) Mục tiêu kiểm toán (trách nhiệm giải trình hoặc cải tiến hiệu quả hoạt

động) phù hợp với yêu cầu xã hội

Đầu vào

(3) Địa vị pháp lý SAI,

(4) Thẩm quyền của SAI;

(5) Năng lực KTV (trình độ, kỹ năng) và khả năng triển khai kiểm toán hoạt động của SAI

(B) 03 nhóm nhân tố (trình độ, kỹ năng KTV, khả năng triển khai kiểm toán hoạt động)

Hoạt động (Quy trình kiểm toán)

(6) Phương pháp tiếp cận lựa chọn chủ đề kiểm toán;

(7) Phương pháp, chuẩn mực, tiêu chuẩn kiểm toán; cách thức tổ chức thực hiện kiểm toán;

(8) Phân cấp trong SAI;

(9) Mối quan hệ, đặc điểm của đối tượng kiểm toán và các bên liên quan.


(C) Đặc điểm của đối tượng được kiểm toán ảnh hưởng đến việc triển khai kiểm toán hoạt động

Đầu ra

(10) Báo cáo kiểm toán, tác động đến

đơn vị được kiểm toán trong quá trình kiểm toán


(E) Quan điểm xây dựng và phát triển kiểm toán hoạt động

Kết quả đạt được

(11) Tác động từ các bên liên quan đến đơn vị được kiểm toán;

(12)Tác động từ báo cáo kiểm toán tới các bên liên quan và ngược lại tác động

từ các bên liên quan đến SAI.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 184 trang tài liệu này.

Nhân tố ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam - 9


Nguồn: Pollite & cộng sự (1999) và phân loại của


2.5. Kết luận

Kiểm toán hoạt động là một loại hình kiểm toán xuất hiện trong lĩnh vực công khi các SAI mở rộng vai trò, chức năng của mình nhằm đáp ứng yêu cầu của công chúng. Khác với loại hình kiểm toán truyền thống, kiểm toán hoạt động đưa ra ý kiến đánh giá tập trung vào các mục tiêu là tính kinh tế, hiệu quả và hữu hiệu của các hoạt động, nhiệm vụ hoặc các chương trình của chính phủ. Vai trò của kiểm toán hoạt động là cung cấp thông tin giải trình trách nhiệm và giúp đơn vị được kiểm toán


cải tiến hiệu quả hoạt động. Khó có thể đạt được kết quả đồng thời ở cả hai vai trò này trong thực tiễn hoạt động kiểm toán, vì vậy, nhiều SAI nghiêng về hướng tập trung vào vai trò cung cấp thông tin trách nhiệm giải trình (giám sát). Mặc dù, một số nội dung liên quan tới bản chất kiểm toán hoạt động đã đi đến thống nhất giữa các nhà nghiên cứu và trong hoạt động kiểm toán của các SAI, nhưng vẫn còn một số nội dung theo Lonsdale & cộng sự (2011) cho rằng cần phải tiếp tục nghiên cứu để đi đến thống nhất.


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Chương này mô tả phương pháp nghiên cứu lựa chọn nhằm trả lời các câu hỏi nghiên cứu đã đề xuất trong phần giới thiệu. Đầu tiên, chương này sẽ giới thiệu phương pháp nghiên cứu và cơ sở lựa chọn phương pháp nghiên cứu.Tiếp đến, trình bày quy trình thu thập dữ liệu và phân tích dữ liệu trong bước nghiên cứu định tính và định lượng.

3.1. Phương pháp nghiên cứu và thu thập dữ liệu

3.1.1. Phương pháp nghiên cứu

Có ba phương pháp nghiên cứu thường được sử dụng là định tính, định lượng và kết hợp (Creswell & cộng sự 2003).

Với mục tiêu là xác định các nhân tố ảnh hưởng tới việc hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam thì cách tiếp cận định lượng là phù hợp. Tuy nhiên, cách tiếp cận này chỉ có thể thực hiện khi đã có những nghiên cứu hoặc mô hình đề xuất trước đó. Bên cạnh đó, hiện nay, chưa có nghiên cứu nào sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng được công bố trên thế giới và tại Việt nam liên quan đến chủ đề này. Vì vậy, trong trường hợp này, Luận án sử dụng tiếp cận kết hợp, theo đó, bước tiếp cận đầu tiên là định tính, tiếp theo sẽ là định lượng. Đây là phương pháp phù hợp nhất vì nó không những giúp giải thích hiện tượng khi nhà nghiên cứu không hiểu biết đầy đủ các biến số quan trọng và chủ đề này còn mới (Morse 1991, trích Creswell & cộng sự. 2003). Thêm vào đó, nó có thể cung cấp ý nghĩa, giá trị và sự hiểu biết về các vấn đề xã hội mà các nghiên cứu trước đây còn mơ hồ hoặc khi sử dụng lý thuyết nền mới.

Vì vậy, quy trình nghiên cứu của Luận án xác định là quy trình hỗn hợp, kết hợp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, theo các bước cụ thể như sau:

Bước 1. Tổng kết các nghiên cứu trước liên quan đến việc hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động tại một số quốc gia trên thế giới. Thông qua đó, vừa nhằm xác định khe hổng nghiên cứu, vừa nhằm mục đích phân loại và tổng hợp các nhân tố được cho là có ảnh hưởng tới chủ đề nghiên cứu này và giải thích nhân tố nào ảnh hưởng đến việc chuyển đổi từ chức năng kiểm toán truyền thống sang kiểm toán


hoạt động. Ngoài ra, dựa trên hiểu biết này, có thể phân loại các giai đoạn hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động tại một số quốc gia để định hình định xu hướng phát triển chủ đạo trong thời gian tới nhằm trả lời cho câu hỏi nghiên cứu Q1: "Tại sao một số SAI trên thế giới chuyển đổi chức năng kiểm toán truyền thống sang kiểm toán hoạt động?”.

Bước 2. Thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu định tính

Theo Creswell & cộng sự (2003) có năm phương pháp nghiên cứu được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu định tính gồm: dân tộc học, lý thuyết cơ sở, nghiên cứu tình huống, nghiên cứu hiện tượng học và nghiên cứu tiểu sử. Với mục tiêu nghiên cứu của luận án, nhằm khảo sát quá trình hình thành và phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam, xác định các nhân tố ảnh hưởng và đo lường mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố, bước này tiến hành khảo cứu lịch sử phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam. Qua đó, tiến hành phân tích những thay đổi trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm toán theo thời gian trên hai phương diện: Khuôn khổ pháp lý (văn bản pháp quy và các quy định liên quan) và thực tiễn hoạt động kiểm toán qua phân tích các Báo cáo kiểm toán trong giai đoạn 10 năm (từ năm 2005-2014), khảo sát tình huống (hai tình huống kiểm toán) và phỏng vấn sâu chuyên gia. Thực hiện bước này nhằm trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu sau:

Q2: Nhân tố nào ảnh hưởng đến sự xuất hiện kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam?.

Q3: Mức độ phát triển kiểm toán hoạt động của Kiểm toán Nhà nước trong lĩnh vực công hiện nay ở Việt Nam ở giai đọạn nào so với thế giới?.

Q4: Những nhân tố nào cản trở khả năng phát triển kiểm toán hoạt động trong lĩnh vực công ở Việt Nam.

Bước 3: Thu thập dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu định lượng.

Nghiên cứu định lượng sẽ được sử dụng tiếp theo nhằm mục đích cung cấp bằng chứng khẳng định các nhân tố được xác định từ các nghiên cứu trước và các nhân tố phát hiện trong bước nghiên cứu định tính có mối tương quan với sự phát triển kiểm toán hoạt trong lĩnh vực công ở Việt Nam và đo lường mức độ tác động

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 06/10/2022