Tỷ Lệ Hiện Nhiễm Hiv Ở Người Nghiện Chích Ma Túy Năm 2011


Tiếp cận các dịch vụ can thiệp


Kết quả nghiên cứu của đề tài này cho thấy, phần lớn (82,8%) người NCMT biết được nơi có thể nhận/mua BKT sạch; Trong đó từ hiệu thuốc (74,7%), cơ sở y tế (39,0%), người bán ma túy (10,1%), cán bộ y tế (5,6%), cộng tác viên (2,5%) và thấp nhất là đồng đẳng viên (1,4%). Tỷ lệ này thấp hơn khi so với kết quả giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam năm 2009 đều cho thấy tỷ lệ biết nơi mua hoặc nhận BKT sạch ở các tỉnh là: An Giang 95,0%, Đà nẵng 96,9%, Hải Phòng 95,3%. Đặc biệt, tỷ lệ biết nơi có thể nhận/mua BKT sạch từ cộng tác viên (2,5%), đồng đẳng viên (1,4%) là rất thấp. So sánh với nghiên cứu của Đào Đình Cường tại tỉnh Lạng sơn năm 2008, đa số (97,1%) nhận từ hiệu thuốc, 64,6% từ các đồng đẳng viên, 33,4 % tại các cơ sở Y tế. Điều này là do trước đây chương trình trao đổi BKT sạch tại Quảng Nam chưa được triển khai đồng bộ. Tuy nhiên, việc triển khai chương trình này là rất cần thiết nhằm hạn chế lây nhiễm HIV trong nhóm NCMT. Qua các kết quả trên cho thấy, các hiệu thuốc, hoạt động của đồng đẳng viên là hết sức cần thiết trong việc cung cấp BKT sạch cho người NCMT [27], [70].

Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy, người NCMT nhận thông tin trong 6 tháng qua về hành vi tiêm chích an toàn chiếm 14,9%. Tương tự như vậy, người NCMT được điều tra nhận thông tin về tình dục an toàn trong 6 tháng qua chiếm 28,1%. Trong đó, cơ sở y tế (64,2%), cộng tác viên (26,2%), đồng đẳng viên (5,3%). Như vậy, nguồn cung cấp thông tin chủ yếu từ cơ sở y tế. Bởi vì chương trình trao đổi bơm kim tiêm chưa được triển khai đồng bộ nên các thông tin được cung cấp từ đồng đẳng viên rất ít (chỉ chiếm 5,3%) mà lẽ ra đây là mạng lưới đóng vai trò chủ đạo trong chương trình này, bởi vì chính những người bạn cùng nhóm, đồng đẳng viên dễ tiếp xúc trao đổi với nhau hơn về phòng chống HIV/AIDS và các biện pháp can thiệp giảm thiểu tác hại.


Đây là một kênh truyền thông có giá trị đối với người nghiện ma túy nói chung và người nghiện chích ma túy nói riêng. Kết quả điều tra nghiên cứu của chúng tôi năm 2011 thấp hơn nhiều khi so các tỉnh, thành ở miền Bắc và miền Nam [27], [54], [58], [71].

Kết quả điều tra cơ bản năm 2011 tại Quảng Nam so sánh với các tỉnh cho thấy, tỷ lệ sử dụng BCS khi QHTD trong tháng qua của người NCMT với bạn tình bất chợt ở các tỉnh chưa đạt theo yêu cầu về chương trình khuyến khích sử dụng 100% BCS ở Việt Nam. Tỷ lệ này cao thấp khác nhau ở các tỉnh như Lai Châu là 56,3% ; ở An Giang 34,8%; ở Kiên Giang 73,4%; ở Đồng Tháp 77,8%. Tuy nhiên tỷ lệ sử dụng BCS trong lần QHTD gần đây nhất của người NCMT với PNMD tăng đáng kể so với kết quả điều tra cơ bản như ở Lai Châu là 94%; ở An Giang là 90,4% ; ở Đồng Tháp là 91%. Số lần QHTD với bạn tình bất chợt trong tháng qua gần như tương đương với số lần QHTD với PNMD của người NCMT. Mặc dù, tỷ lệ sử dụng BCS lại thấp hơn so với QHTD với PNMD. Tuy vậy, mức độ sử dụng BCS khi QHTD với bạn tình bất chợt trong 12 tháng qua tất cả các lần lại chiếm tỷ lệ thấp hơn [17], [46].

Trong số người NCMT được điều tra có 66,4% người NCMT sử dụng BCS khi QHTD với PNMD. Như vậy, tỷ lệ sử dụng BCS ở người NCMT là tương đối thấp. Tuy nhiên kết quả của chúng tôi tương đương kết quả chương trình giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI tại Việt Nam năm 2009. Như vậy, cùng với kết quả một số điều tra khác, nghiên cứu này cũng thấy rằng: Hành vi nguy cơ cao trong quá trình lây truyền HIV ở người NCMT là sử dụng chung BKT trong TCMT và không dùng BCS trong QHTD

4.1.3. Tỷ lệ hiện nhiễm HIV ở người nghiện chích ma túy năm 2011

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 199 trang tài liệu này.


Kết quả giám sát phát hiện tại Quảng Nam cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV rất cao trong nhóm NCMT, chiếm 65,8% tổng số các trường hợp nhiễm HIV

Nguy cơ lây nhiễm HIV và hiệu quả can thiệp dự phòng trên nhóm nghiện chích ma túy tại Quảng Nam - 17


được phát hiện tại Quảng Nam trong 5 năm gần đây. Như vậy, dịch HIV Quảng Nam có liên quan mật thiết với tình trạng gia tăng người NCMT [6], [62]. Ở nước ta, từ những ngày đầu vụ dịch HIV/AIDS vào năm 1990 đến nay cho thấy, số người nhiễm HIV được phát hiện hàng năm vẫn tập trung trong nhóm NCMT. Tỷ lệ nhiễm HIV qua đường máu mà chủ yếu là do dùng chung BKT trong TCMT tuy có giảm dần từ năm 1993 đến năm 2013 (từ 83,3% năm 1993 xuống còn 42,4% vào năm 2013) nhưng vẫn chiếm ưu thế trong tổng số các trường hợp nhiễm HIV của cả nước [16], [48], [101].

Kết quả nghiên cứu của đề tài cho thấy tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu năm 2011 tỷ lệ nhiễm HIV của nhóm NCMT là 6,3%. Tỷ lệ này thấp hơn so với toàn quốc. Qua số liệu giám sát trọng điểm, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm người NCMT toàn quốc tăng mạnh giai đoạn từ 1996 đến năm 2003, tỷ lệ cao nhất là 29,3% (năm 2002 và năm 2003), sau đó dịch có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây [65]. Năm 2010, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT toàn quốc là 17,2% và giảm xuống còn 13,4% vào năm 2011; 11,6% vào năm 2012 và 10,3% vào năm 2013. Tuy nhiên, có sự khác nhau giữa các khu vực về tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT, tỷ lệ này ở các tỉnh đồng bằng Bắc bộ là 14,9%, khu vực miền núi phía Bắc 12,1%, ở các tỉnh miền Đông Nam bộ 9,6%, các tỉnh Bắc Trung bộ 7,9%, khu vực đồng bằng sông Cửu Long 9,1%, khu vực Tây Nguyên 5,7%, khu vực duyên hải miền Trung 3,8% [6], [16].

Tại một số tỉnh/thành phố tỷ lệ nhiễm HIV trong người NCMT rất cao như Quảng Ninh là 54%, thành phố (TP) Hồ Chí Minh là 47,6%, TP. Hải Phòng là 46,25%, TP. Cần Thơ 45%, Thái Nguyên 40,75% và Điện Biên là 36,83% vào năm 2007. Đến năm 2009 các tỉnh/thành phố tỷ lệ nhiễm HIV trong người NCMT có giảm song vẫn ở mức cao như: TP Hồ Chí Minh 42,1%, TP cần Thơ 40,8%, Điện Biên 40,7%, Thái Nguyên 36,1%, Quảng


Ninh 34,3%. Hiện nay (năm 2013), tỷ lệ này vẫn còn khá cao tại một số tỉnh như: Thái Nguyên 32%, Lai Châu 27,7%, Hà Nội 24%, Quảng Ninh 22,4%, TP Hồ Chí Minh 18,2%, Cao Bằng 17,2%, Lạng Sơn 15,6%, Hải Phòng 14,7%, Sơn La 14,3%. Điều đó cho thấy nhiễm HIV ở Việt Nam chủ yếu qua TCMT [14], [16], [70].

Kết quả nghiên cứu chúng tôi cũng phù hợp kết quả giám sát trọng điểm hàng năm ở 40 tỉnh/thành trên toàn quốc rằng: từ năm 2006 đến nay tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT tại khu vực miền Trung luôn thấp hơn các khu vực còn lại và thấp hơn tỷ lệ chung toàn quốc [16]. Tuy nhiên, khi so với các tỉnh trong cùng khu vực duyên hải miền Trung, tỷ lệ này trong nghiên cứu chúng tôi lại cao hơn. Cụ thể, kết quả điều tra giám sát kết hợp hành vi và các chỉ số sinh học HIV/STI (IBBS) tại Việt Nam, vòng II năm 2009, tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT tại Đà Nẵng là 1,0%. Nghiên cứu của Trần Kim Phụng tại Quảng Trị năm 2010, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm NCMT là 3,9% [53]. Tỷ lệ nhiễm cao đồng nghĩa với nguy cơ lây nhiễm cao. Tình trạng đào đãi vàng trái phép tràn lan tại các huyện miền núi Quảng Nam, đặc biệt huyện Phước Sơn tập trung lượng khá lớn người NCMT lén lút trong rừng sâu, nơi các dịch vụ y tế khó tiếp cận được.

Tại nước ta tình hình dịch HIV ở người NCMT tại Việt Nam lan truyền rất nhanh và vượt qua mọi khoảng cách địa lý khác nhau. Mặc dù, tình hình dịch ở các tỉnh có khác nhau nhưng nhìn chung tỷ lệ nhiễm HIV ở người NCMT tại Việt Nam cao chủ yếu do việc dùng chung BKT và không sử dụng BCS khi quan hệ tình dục với bạn tình trong khi các dịch vụ dự phòng vẫn còn hạn chế [11], [30].

Trên thế giới, qua các nghiên cứu cho thấy: lây truyền HIV chủ yếu qua quan hệ tình dục và tiêm chích ma túy, tuy nhiên tỷ lệ HIV dương tính ở


người NCMT thay đổi theo khu vực. Những nước phát triển ở Châu Âu và ở Châu Mỹ mặc dù việc phát hiện các trường hợp nhiễm HIV trên người NCMT được ghi nhận sớm hơn, nhưng có tỷ lệ nhiễm thấp hơn và khá ổn định so với các nước đang phát triển ở Châu Á đặc biệt ở các nước Đông Nam Á. Trái lại, HIV xuất hiện trong quần thể người NCMT tại các nước đang phát triển ở Châu Á được ghi nhận muộn hơn, nhưng lại có xu hướng gia tăng nhanh [100], [101], [108].

4.1.4. Các yếu tố liên quan với hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV


Chúng tôi phân tích mối liên quan đơn biến, đa biến của các biến độc lập với biến phụ thuộc (từ bảng 3.17 đến bảng 3.23) cho thấy, các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu, xã hội học của nhóm đối tượng nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến hành vi sử dụng BKT trong nhóm nghiện chích ma túy. Ngoài ra, thời gian tiêm chích trong nhóm NCMT cũng không có liên quan nhiều tới hành vi dùng chung BKT (OR=1,4; p=0.079). Kết quả từ bảng 3.22 cũng cho thấy trình độ học vấn và kiến thức cơ bản trong phòng chống HIV/AIDS có mối liên quan thực sự tới hành vi dùng chung BKT trong nhóm NCMT. Nhóm đối tượng có trình độ học vấn từ cấp II trở xuống có nguy cơ dùng chung BKT gấp 2,5 lần nhóm học từ cấp II trở lên (OR=2,5; p=0,001). Nhóm đối tượng có kiến thức cơ bản không đạt có nguy cơ dung chung BKT gấp 2,5 lần nhóm đạt kiến thức cơ bản (OR=2,5; p=0,001).

Tương tự như hành vi dùng chung BKT, chúng tôi phân tích hồi quy đa biến với biến phụ thuộc là hành vi dùng BCS khi QHTD bạn tình không phải vợ/người yêu (bao gồm PNMD và bạn tình bất chợt không trả tiền) cho thấy, các yếu tố về đặc điểm nhân khẩu, xã hội học của nhóm đối tượng nghiên cứu cũng không làm ảnh hưởng đến hành vi sử dụng BCS khi QHTD với người không phải vợ/người yêu của nhóm đối tượng này. Ngoài ra, thời gian tiêm


chích không có liên quan tới hành vi sử dụng BCS (OR=1,6; p=0,067). Kết quả bảng 3.23 cũng cho thấy trình độ học vấn và kiến thức cơ bản trong phòng chống HIV/AIDS có mối liên quan thực sự tới hành vi sử dụng BCS trong nhóm NCMT. Nhóm NCMT có trình độ học vấn từ cấp II trở xuống có nguy cơ không sử dụng BCS khi QHTD gấp 2,8 lần nhóm học trên cấp II (OR=2,8; p<0,01). Nhóm đối tượng có kiến thức cơ bản không đạt có nguy cơ không sử dụng BCS cao gấp 1,9 lần nhóm đạt kiến thức cơ bản (OR=1,9; p=0,041).

Ngoài ra, chúng tôi tiến hành phân tích hồi quy đơn biến, hồi quy đa biến giữa một số yếu tố khác với các hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV nhưng chưa thấy có sự liên quan có ý nghĩa thống kê.

So sánh kết quả của chúng tôi về các yếu tố liên quan sử dụng BKT sạch, BCS, tư vấn xét nghiệm tự nguyện với trình độ học vấn, thời gian NCMT; mối liên quan giữa kiến thức và thực hành phù hợp với kết quả điều tra đánh giá hành vi của người nghiện chích ma túy tại tỉnh Thanh Hóa năm 2008 và tỉnh Sơn La năm 2009 [19], [26].

4.2. HIỆU QUẢ DỰ PHÒNG LÂY NHIỄM HIV Ở NHÓM NGHIỆN CHÍCH MA TÚY TẠI QUẢNG NAM SAU 2 NĂM CAN THIỆP

4.2.1. Hiệu quả về tư vấn, xét nghiệm HIV


Kết quả nghiên cứu chúng tôi cho thấy, sau 2 năm can thiệp, tỷ lệ người NCMT tự nguyện đi xét nghiệm HIV tăng từ 74,2% lên 88,2%. Tỷ lệ người NCMT được yêu cầu phải xét nghiệm HIV đã giảm đáng kể, từ 25,8% xuống còn 11,8%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,01. Tỷ lệ người NCMT được tư vấn trước xét nghiệm tăng từ 31,8% lên 63,3% với p < 0,01 và chỉ số hiệu quả (CSHQ) là 99,1%. Tỷ lệ người NCMT được tư vấn đúng


sau xét nghiệm cũng tăng từ 40,2% lên 75,1% với p < 0,01 và CSHQ là 86,8%. Sau 2 năm can thiệp, hoạt động TVXNTN đã có sự thay đổi đáng kể.

Một kết quả nghiên cứu trên 3.570 khách hàng tìm kiếm dịch vụ TVXNTN tại bệnh viện huyện Sansai thuộc miền Bắc Thái Lan cho thấy: Dịch vụ TVXNTN triển khai tại cộng đồng có thể tiếp cận tốt với nhũng người NCMT có hành vi nguy cơ cao. Tại một trung tâm TVXNTN ở Campuchia, theo dõi tình trạng chuyển đổi huyết thanh của 5.541 người NCMT trong 5 năm nhận thấy: Tỷ lệ chuyển đổi huyết thanh giảm từ 8,5% năm 1996 xuống còn 3,1% năm 1999 [82], [101]. Bên cạnh đó, một nghiên cứu về chi phí và sự tự nguyện đến với dịch vụ TVXNTN tại Kenya kết luận: TVXNTN nên là một thành tố quan trọng trong chiến lược chăm sóc, dự phòng HIV/AIDS tại các Quốc gia. Tuy nhiên, giá của dịch vụ cao đã làm tăng nỗi băn khoăn về khả năng tiếp cận của người dân ở các nước có thu nhập thấp. Điều này cho thấy, nên lồng ghép dịch vụ TVXNTN vào các trung tâm chăm sóc sức khỏe sẵn có hơn là thiết lập các vị trí độc lập và nhân viên tư vấn là cán bộ y tế nhà nước hoạt động kiêm nhiệm [95].

Ở nước ta, từ năm 2004 với mô hình TVXNTN triển khai lồng ghép tại tuyến huyện đã giải quyết được các bất cập trước đây, do đó đã thu hút ngày càng nhiều người NCMT đến tư vấn, xét nghiệm HIV và chất lượng tư vấn cũng chuyển biến đáng kể. Kết quả nghiên cứu đánh giá hiệu quả can thiệp tại

3 tỉnh Tuyên Quang, Hòa Bình, Bắc Cạn năm 2013 cho thấy, dịch vụ TVXNTN, mô hình được xem là có hiệu quả trong việc giảm nguy cơ lây nhiễm HIV, hầu hết người NCMT ở 3 tỉnh đều nhận được thông tin truyền thông về tiêm chích an toàn và tình dục an toàn nhưng số người đến để xét nghiệm HIV và nhận kết quả 6 tháng 1 lần chưa cao, Bắc Cạn là 70,1%, Hòa Bình 61,0% nhưng Tuyên Quang chỉ có 15,5% [71]. Nhìn chung chương trình TVXNTN đã mang lại kết quả to lớn nhưng cũng có hạn chế nhất định. Đối


tượng tư vấn hiện nay chủ yếu vẫn tập trung vào những người NCMT, PNMD, người nhiễm HIV. Việc tiếp cận với đối tượng tư vấn còn thụ động từ cả hai phía: Tư vấn viên và đối tượng tư vấn. Người NCMT nguy cơ không muốn đến các phòng TVXNTN do kỳ thị xã hội, không hiểu được lợi ích của việc tư vấn. Tư vấn viên chưa được đào tạo đầy đủ về kỹ năng tiếp cận người NCMT và qui trình tư vấn chuẩn. Địa điểm phòng tư vấn TVXNTN chưa thực sự phù hợp, phương tiện truyền thông nghèo nàn, dụng cụ trực quan thiếu….Hoạt động tư vấn trong thời gian tới cần giải quyết những nội dung trên để đáp ứng được nhu cầu tư vấn cho mọi đối tượng, đặc biệt là người NCMT và làm tăng chất lượng, hiệu quả tư vấn [42].

4.2.2. Hiệu quả về chăm sóc, hỗ trợ người nghiện chích ma túy


Với sự tham gia, hỗ trợ tích cực của nhóm cộng tác viên, đồng đẳng viên hoạt động truyền thông thay đổi hành vi được tổ chức thường xuyên, liên tục trong cộng đồng người NCMT. Các thông tin về tiêm chích an toàn, tình dục an toàn được chuyển tải đến người NCMT. Sau 2 năm can thiệp, tỷ lệ người NCMT đã được nghe, nói về tiêm chích an toàn đã tăng lên rõ rệt, từ 14,9% năm 2011 tăng lên 58,6% năm 2014, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 và CSHQ đạt 293,8%. Tỷ lệ người NCMT được nghe nói về tình dục an toàn cũng tăng lên đáng kể, tăng từ 28,1% năm 2011 lên 72,1% vào năm 2014, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 và CSHQ đạt 156,2%. Tỷ lệ người NCMT có QHTD nhận được BCS miễn phí trong vòng 6 tháng qua tăng từ 19,8% (trước can thiệp) lên 58,2% (sau can thiệp), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 và CSHQ đạt 193,9%. Tỷ lệ người NCMT nhận được BKT sạch trong 6 tháng qua tăng từ 1,4% (trước can thiệp) lên 32,3% (sau can thiệp) (p < 0,05 và CSCT: 2.207%). Trong đó, tỷ lệ người NCMT nhận được BKT sạch miễn phí từ đồng đẳng viên tăng từ 2,3% (trước can thiệp) lên 25,4% (sau can thiệp) với p < 0,01 và CSHQ là 1.004,3%. Tỷ lệ

Xem tất cả 199 trang.

Ngày đăng: 01/04/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí