Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Lập luận trên diễn đàn quốc hội qua những phiên chất vấn - 2

MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài

1.1. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài

Lập luận là đối tượng chính trong nghiên cứu về logic. Theo đó, lập luận cũng được các nhà nghiên cứu trên thế giới tìm hiểu đặt trong sự soi chiếu bởi logic hình thức và logic phi hình thức. Logic hình thức nghiên cứu các lập luận dưới góc độ logic cổ điển (gắn với cấu trúc tam đoạn luận) và hiện nay là logic toán học, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo. Có thể thấy rò được thành quả nghiên cứu của logic học hình thức đã tạo nên cuộc cách mạng công nghiệp với sự phát triển như vũ bão của trí tuệ nhân tạo. Bên cạnh đó, logic học phi hình thức cũng có vai trò quan trọng khi xem xét đến những lập luận trong các diễn ngôn đời thường, trong mọi phạm vi, lĩnh vực ứng dụng: khoa học, giáo dục, y tế, pháp lí, truyền thông...

Vấn đề nghiên cứu về logic phi hình thức và lập luận đời thường đã là một xu hướng phát triển mạnh mẽ trên thế giới từ vài thập kỉ qua. Các học giả từ nhiều lĩnh vực đã cùng nhau thảo luận về lập luận tại các hội nghị quốc tế được tổ chức bởi Đại học Amsterdam (Hà Lan) và Hiệp hội Nghiên cứu Lập luận Quốc tế (ISSA). Những hội nghị quốc tế khác phải kể đến là hội nghị được tổ chức tại Alta, Utah, tài trợ bởi Hiệp hội truyền thông quốc gia (Mĩ) và Hiệp hội pháp lí (Mĩ) (American Forensics Association), Hiệp hội nghiên cứu tranh luận Ontario (OSSA). Ngoài ra, còn có hội thảo Châu Âu về lập luận (The European Conference on Argumentation- ECA). Hội thảo này được tổ chức lần đầu tiên tại Lisbon, Bồ Đào Nha. Hiện đã có các tạp chí dành riêng cho các công bố về logic phi hình thức (Informal logic Journal) và lập luận (Journal of Argumentation). Trong đó, tạp chí Logic phi hình thức cũng khẳng định phạm vi công bố trên tạp chí này bao gồm cả vấn đề lí thuyết, lí lẽ và lập luận thực tế.

1.2. Từ thực tiễn nghiên cứu về lập luận tại Việt Nam

Trong khi nghiên cứu về lập luận đã và đang là xu thế phát triển mạnh mẽ trên thế giới; hiện tại, ở Việt Nam, nghiên cứu về lập luận vẫn còn những hạn chế. Nghiên cứu về lập luận trong địa hạt ngôn ngữ tại Việt Nam bắt đầu từ một số công trình có tính chất gợi dẫn của các tác giả: Đỗ Hữu Châu (1996) và Nguyễn Đức Dân (1996, 1998). Tuy nhiên, các công trình này chủ yếu dừng lại xem xét lập luận trên cứ liệu tiếng Việt dựa theo quan điểm logic hình thức [3, tr.5- 406] hoặc theo quan điểm của

O. Ducrot [2, tr.163-244], [4]. Sau đó, xuất hiện các luận án nghiên cứu lập luận gắn liền với các phạm vi ứng dụng cụ thể trong tiếng Việt. Nhưng, tất cả mới chỉ dừng lại phân tích lập luận dựa trên cấu trúc nội tại, chưa xem xét lập luận trong sự vận động, tương tác hội thoại. Nói cách khác, nghiên cứu lập luận ở Việt Nam chủ yếu dưới quan điểm xem lập luận là kết quả của quá trình suy luận logic từ các tiền đề. Nghiên cứu về lập luận trong bối cảnh tranh luận (nơi mà lập luận thể hiện rò nhất vai trò của nó) tại Việt Nam vẫn còn là một khoảng trống.

1.3. Từ thực tiễn nhu cầu lập luận trong Nghị trường Quốc hội Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 232 trang tài liệu này.

Sử dụng lập luận từ nói năng hàng ngày đến các cuộc tranh luận trong khoa học, chính trị… là rất cần thiết. Đối với các đại biểu Quốc hội, năng lực lập luận là tối quan trọng. Có một quan điểm lập trường, định hướng tốt nhưng nếu không được trình bày logic, hợp lí để thuyết phục thì sẽ không tạo ra tính hiệu quả đối với đích lập luận. Nhận thấy, trong nhiều kì họp, phiên họp Quốc hội Việt Nam; bên cạnh những lập luận sắc sảo, vẫn tồn tại những lập luận chưa thuyết phục. Luận án đi sâu tìm hiểu đặc điểm lập luận với tư cách cấu trúc nội tại trong từng lượt lời (đặc điểm của LC, KL, CDLL, lí lẽ) và lập luận với tư cách là hành vi ngôn ngữ trong hội thoại tranh luận (đặc điểm lập luận/ tranh luận trong sự vận động, tương tác hội thoại: lập luận/ tranh luận chưa thuyết phục; nghệ thuật hỏi, chất vấn, trả lời). Qua đó, phân tích được một số đặc điểm trong lập luận, tranh luận; lí giải và nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Luận án hướng đến quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân tại kì họp thứ 3- Quốc hội khóa XIV: “Chuyển từ Quốc hội tham luận sang Quốc hội tranh luận” [111]. Vậy, tranh luận tại Nghị trường Quốc hội tại sao cần được quan tâm hơn nữa? Làm thế nào để có những tranh luận hợp lí? Đây là một vấn đề quan trọng nhưng chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào được đặt ra theo định hướng nghiên cứu từ bản chất lí thuyết lập luận.

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam: Lập luận trên diễn đàn quốc hội qua những phiên chất vấn - 2

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận án là làm rò đặc điểm của lập luận nhìn từ cấu trúc nội tại của từng lượt lời và đặc điểm lập luận đặt trong sự vận động, tương tác tranh luận, nhận xét một số vấn đề sử dụng lập luận trong các lượt lời hỏi/ chất vấn, trả lời, điều hành, mô hình tranh luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (đặc biệt chú ý hướng đến lập luận hiệu quả trong bối cảnh chất vấn và ngữ cảnh tranh luận).

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Từ mục đích nghiên cứu trên, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau:

- Thu thập, tổng thuật các tài liệu liên quan: các công trình nghiên cứu về lập luận trên thế giới và Việt Nam, văn bản ghi chép, băng truyền hình trực tiếp nội dung các phiên hỏi/ chất vấn tại Nghị trường Quốc hội Việt Nam.

- Thống kê, phân loại các thành phần trong cấu trúc lập luận qua phiên chất vấn: các thành phần luận cứ, kết luận, lí lẽ; một số yếu tố ngôn ngữ (kết tử lập luận, tác tử lập luận); các kiểu mô hình lập luận thường gặp trong các lượt lời lập luận; các lập luận yếu/ sai (/chưa thuyết phục); các hành vi hỏi và trả lời; phương pháp hỏi, trả lời, điều hành trong hội thoại tranh luận; các mô hình tương tác hội thoại của các đại biểu Quốc hội.

- Phân tích, đánh giá, lí giải lập luận dựa trên sự miêu tả, sơ đồ hóa các lập luận (cấu trúc, thành tố, mối quan hệ giữa các thành tố), và lược đồ hóa các hội thoại tranh biện đặt trong mối quan hệ vận động tương tác (các tham thoại, hành vi hỏi/ chất vấn và trả lời).

- Nhận xét về cách thức sử dụng lập luận từ kết quả phân tích thực trạng.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận qua những phiên chất vấn trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam (xét trong các vai trò: 1, sản phẩm của quá trình nói năng xuất phát từ tiền đề để đi đến kết luận (lập luận trong cấu trúc nội tại của từng lượt lời- chương 2); 2, hành vi ngôn ngữ phức hợp1 trong hội thoại tranh luận- chương 3).

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án này nghiên cứu LL (hình thức, nội dung) xét trong các nhiệm vụ xác định, phân tích, đánh giá, tạo lập lập luận qua những phiên chất vấn trực tiếp (kể cả những phiên chất vấn kết hợp khi thảo luận báo cáo tổng kết tình hình phát triển kinh tế- xã hội) từ kì họp Quốc hội khóa XI- XIV. Trong đó, luận án sử dụng 206 LL (83 ĐLL) tại hai phiên họp liền nhau tại khóa XIII là trường hợp mẫu. Các nhận định rút ra còn được kiểm chứng, khái quát bởi những phiên họp, kì họp khác từ các khóa XI- XIV (các phiên họp này được chọn đa dạng ở các kì họp, khóa họp).

Nguồn tư liệu được lấy từ cổng thông tin điện tử chính thức của Quốc hội Việt Nam (http://quochoi.vn).

4. Hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Hướng tiếp cận

Đối tượng nghiên cứu của luận án là lập luận. Vì thế, quá trình phân tích, đánh giá lập luận luôn đặt trong sự tích hợp của các ngành: logic học, ngữ dụng học và một phần tu từ học.

Luận án chủ yếu vận dụng phương pháp và kết quả nghiên cứu về lập luận của trường phái logic (theo quan điểm của S. Toulmin, D. Walton) kết hợp với quan điểm lập luận triệt để, miêu tả (của O. Ducrot), và quan điểm dụng học biện chứng (của D. Walton và F.H. van Eemeren) khi xem xét lập luận trong sự vận động hội thoại tranh biện2.



1 Luận án có quan điểm lập luận là hành vi ngôn ngữ phức hợp theo quan điểm của tác giả F.H van. Eemeren [48, tr.43-53]. Khi đó, hành vi lập luận bao gồm chuỗi các hành vi phức hợp trong nó. Ví dụ: hành vi lập luận với mục đích thuyết phục người nghe mua hàng, người nói xây dựng trong lập luận của mình chuỗi hành vi gồm: hành vi trần thuật (Sản phẩm này có mẫu mã đẹp, hình dáng nhỏ gọn), hành vi khuyên (Hãy mua sản phẩm này!), hành vi cam kết (Chúng tôi cam kết về chất lượng sản phẩm. Sản phẩm sẽ được bảo hành trong thời gian 24 tháng)…

2 Lí do lựa chọn phương pháp tiếp cận này được trình bày cụ thể trong chương 1.

4.2. Phương pháp, thủ pháp nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu đặt ra, luận án vận dụng nghiên cứu định tính dựa trên trường hợp (case study). Nghiên cứu này được thể hiện cụ thể qua các nhiệm vụ:

- Xác định tiêu chí đánh giá lập luận gắn liền với bối cảnh phiên chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.

- Miêu tả những biểu hiện cụ thể của lập luận trong các lượt lời với tư cách là kết quả của quá trình lập luận và lập luận với vai trò là hành vi ngôn ngữ (miêu tả các thành tố trong cấu trúc lập luận, sơ đồ lập luận, lược đồ tranh luận, đánh giá chất lượng lập luận và tranh luận).

- Phân tích, đánh giá lập luận trong cấu trúc nội tại và hành vi lập luận trong ngữ cảnh hội thoại tranh luận để thấy được xu hướng sử dụng các thành phần lập luận, các kiểu hành vi lập luận, các mô hình tương tác hội thoại tranh luận… qua những phiên chất vấn cụ thể.

- Nhận định xu hướng và định hướng các phương pháp sử dụng lập luận phù hợp, gắn liền với bối cảnh chất vấn trên diễn đàn Quốc hội.

4.2.1. Phương pháp nghiên cứu

4.2.1.1. Phương pháp miêu tả

Đây là phương pháp có vai trò quan trọng trong luận án. Phương pháp này được sử dụng phổ khắp từ miêu tả đặc điểm lập luận trong cấu trúc nội tại của diễn ngôn, các kiểu lập luận chưa thuyết phục, sự tương tác trong hội thoại tranh luận.

4.2.1.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn

Phương pháp phân tích diễn ngôn được sử dụng xuyên suốt trong luận án. Sử dụng phương pháp này, luận án đi vào phân tích, phân loại một số phương diện của lập luận: thành phần trong cấu trúc lập luận, tranh luận (sự vận động tương tác, nghệ thuật hỏi- trả lời, mô hình tranh luận, ngôn ngữ của người điều hành) để từ đó đánh giá khái quát đặc điểm lập luận trên diễn đàn Quốc hội Việt Nam qua những phiên chất vấn.

4.2.2. Các thủ pháp nghiên cứu

4.2.2.1. Thủ pháp so sánh, đối chiếu

Thủ pháp so sánh- đối chiếu được dùng trong việc so sánh, đối chiếu các trường hợp để đưa ra đánh giá, nhận định khái quát xu hướng sử dụng các phương diện của lập luận. Bên cạnh đó, thủ pháp này còn được sử dụng trong việc đối chiếu, nhận diện mức độ thuyết phục của các lập luận tốt và lập luận yếu/ sai.

4.2.2.2. Thủ pháp thống kê, phân loại

Thủ pháp thống kê, phân loại được dùng trong việc khảo sát số lượng các yếu tố ngôn ngữ sử dụng trong lập luận, các lí lẽ, những lập luận yếu/ sai, phương pháp hỏi, trả lời; mô hình lập luận đặt trong các mối quan hệ với kết quả tranh luận.

5. Đóng góp của luận án

5.1. Đóng góp trên phương diện lí luận

Luận án khẳng định những giá trị nghiên cứu về lập luận trên thế giới, làm sáng tỏ những lí thuyết này qua một nghiên cứu cụ thể tại Việt Nam. Đó là lí thuyết về lập luận sai, lí thuyết về hội thoại tranh biện (hành vi chất vấn, trả lời chất vấn; nghệ thuật hỏi, trả lời trong tranh biện; vận động, tương tác trong hội thoại tranh luận), lí thuyết về các lí lẽ trong lập luận, lí thuyết mô hình lập luận của S. Toulmin, lí thuyết miêu tả lập luận và đa thanh trong phân tích diễn ngôn của O. Ducrot.

5.2. Đóng góp trên phương diện thực tiễn

Luận án đã đặt ra vấn đề cần xem xét lập luận với vai trò là một hành vi ngôn ngữ phức hợp đặt trong hội thoại tranh biện tại Việt Nam.

Luận án cung cấp phương pháp phân tích, đánh giá lập luận, phản biện, xây dựng lập luận đặt trong bối cảnh chất vấn tại diễn đàn Quốc hội Việt Nam. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được ứng dụng trực tiếp trong phạm vi Quốc hội. Ngoài ra các kiểu sơ đồ lí lẽ, sơ đồ lập luận chưa thuyết phục, sơ đồ phản biện trong luận án có thể được vận dụng trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Luận án có thể được dùng là tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu, giảng dạy về ngữ dụng học, logic học, phân tích diễn ngôn và tư duy phản biện.

6. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận; Nội dung của luận án được xây dựng trong 3 chương:

Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lí luận và thực tiễn.

Chương 2. Cấu trúc nội tại của lập luận trong các lượt lời trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn).

Chương 3. Lập luận trong hội thoại tranh luận trên diễn đàn Quốc hội (qua phiên chất vấn).

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về lập luận ở nước ngoài

Lập luận (argument/ argumentation)- được định nghĩa trong từ điển Oxford learners dictionaries, là sự tranh luận hợp lí được dùng để hỗ trợ cho một lí thuyết, một hành động hoặc một ý kiến (logical arguments used to support a theory, an action or an idea).

Trong công trình nghiên cứu Groundwork in the theory of argumentation (Cơ sở lí thuyết về lập luận), tác giả J. Blair đã xem xét khái niệm lập luận trong phần “A standard concept of Argument and Why it is mistaken” (Một khái niệm chuẩn về lập luận và nguyên nhân nó bị lỗi) [66]. Trước hết, J. Blair đã khái quát ý kiến của các nhà logic học về lập luận. Theo đó, khái niệm “lập luận” được nhìn nhận ở cả phương diện cách thức thực hiện và chức năng. Scriven cho rằng chức năng của một lập luận là để thuyết phục; tiền đề đúng thì kết luận sẽ được chấp nhận. Freeman coi lập luận là một thông điệp người ta cố gắng thiết lập một tuyên bố/ phát biểu là đúng hoặc tin cậy dựa vào những tuyên bố khác. Hitcock đã cho rằng: “Lập luận là một dãy các tuyên bố mà trong đó một kết luận được đưa ra từ những tuyên bố còn lại”… J. Blair đã khẳng định thêm dựa trên sự đồng tình với D. Walton: “Mục đích của lập luận không chỉ là để thuyết phục mà còn là để yêu cầu, tìm kiếm thông tin, điều đình…”.

Dù phạm vi cách hiểu lập luận có khác nhau, nhưng không thể phủ nhận rằng lập luận là nhân tố không thể thiếu trong “nghệ thuật lời nói”, lập luận đã được đề cập đến từ thời Cổ đại. Năm 1947, lập luận được nhắc đến nhiều trong tác phẩm “Tu từ học” của Aristotle. Từ đó về sau, lập luận được nghiên cứu dưới góc nhìn của logic (xem thêm [27, tr.24-26]).

Sau đó, đến thế kỉ XX, nhiều quan điểm nghiên cứu mới về lí thuyết lập luận ra đời nhằm gia tăng hiệu quả của hoạt động lập luận trong thực tế. Nhìn chung, những nghiên cứu này được tổng thuật bởi các công trình của F.H. van Eemeren [chủ tịch hiệp hội nghiên cứu về LL (ISSA), tổng biên tập tạp chí LL (Argumentation Journal)], Rob Grootendorst [50, tr.43-57], và của một số tác giả khác [49], [56], [66], [90], [91]… Theo đó, tình hình nghiên cứu về LL có thể được khái quát như sau:

1.1.1.1. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm của S. Toulmin và C. Perelman

Nghiên cứu về lập luận trong một thời gian dài được chi phối bởi những đóng góp có ảnh hưởng của S. Toulmin và Perelman. Cách tiếp cận hai tác giả có đặc điểm đặc trưng là đều nỗ lực cung cấp một sự thay thế phù hợp hơn cho logic hình thức để xem xét các lập luận đời thường. Mô hình lập luận truyền thống đã được S. Toulmin [76, tr.91- 92] mở rộng thành mô hình lập luận 6 thành tố (dữ kiện, biện minh, hỗ trợ biện minh, phản bác, hạn định, tuyên bố). Perelman và Olbrechts-Tyteca (1958, 1969) cung cấp dãy các kĩ thuật lập luận hiệu quả (“lập luận dựa trên cấu trúc thực tế”, “lập luận thiết lập cấu trúc của thực tế”, v.v...). Trong mô hình của S. Toulmin cũng như trong tu từ học mới của Perelman, những thủ tục hợp lí của lí lẽ phê phán được lấy làm điểm khởi đầu. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, mục đích mà các tác giả đặt ra chưa được giải quyết triệt để. Sự phát triển của những lí thuyết lập luận hiện đại phần lớn bị bỏ qua, hoặc chưa được tính đến đầy đủ (ví dụ, trường hợp logic đối thoại). Một bất cập khác là không có sự thừa nhận thực tế rằng lập luận trước hết là hiện tượng diễn ngôn, cái mà luôn luôn được đặt trong một môi trường theo ngữ cảnh, bối cảnh xác định. Để nghiên cứu lập luận một cách thỏa đáng, nó phải được xem như một dạng hành động ngôn ngữ được tiếp cận trong thực tế sử dụng. Việc bỏ qua những hiểu biết về đối thoại và thực dụng đã cản trở sự phát triển một lí thuyết chắc chắn về lập luận.

1.1.1.2. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm logic phi hình thức

Logic phi hình thức là một phong trào, có nguồn gốc ở Bắc Mĩ vào đầu những năm bảy mươi, khởi nguồn từ sự không thỏa mãn với cách xử lí thông thường về lập luận trong phần mở đầu các sách giáo khoa logic. Kể từ năm 1978, phong trào này chính thức thể hiện tiếng nói của mình trong tạp chí “Informal Logic” (Logic phi hình thức), do Blair và Johnson biên soạn. Mặc dù với tên gọi khác, logic phi hình thức không phải là một ngành logic mới. Đó là một cách tiếp cận thông thường để tranh luận trong ngôn ngữ hàng ngày. Như vậy, logic phi hình thức có phạm vi rộng hơn logic hình thức. Theo các nhà logic phi hình thức, tính hợp lệ và sự hợp nhất của lập luận không giống với tính hợp lệ hình thức trong logic suy luận. Blair và Johnson (1987) lập luận rằng các tiền đề cho một kết luận phải thỏa mãn ba tiêu chí: (1) “sự xác đáng”, (2) “sự đầy đủ”, và (3) “khả năng được chấp nhận”. Với sự xác đáng, câu hỏi đặt ra là có hay không: sự liên quan thích đáng và đầy đủ về nội dung giữa các tiền đề và kết luận, hoặc, sự cung cấp đủ bằng chứng cho kết luận của các tiền đề; với khả năng được chấp nhận, có thể xảy ra, đáng tin cậy hoặc đúng của các tiền đề. Mục tiêu của các nhà logic phi hình thức là phát triển những tiêu chuẩn, tiêu chí và phương pháp cho việc giải thích, đánh giá và xây dựng lập luận. Các giải pháp được tìm kiếm cho

vấn đề phần lớn là: phân tích các cấu trúc lập luận, lập các sơ đồ lập luận, đánh giá lập luận, nhận diện các lỗi, cách tiến hành một cuộc thảo luận, v.v. Trước tình hình đó, logic phi hình thức là một hướng nghiên cứu toàn diện, trong đó lí thuyết lập luận đóng vai trò trung tâm, được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng. Có một sự chồng chéo nổi bật giữa các mục tiêu và phạm vi của logic phi hình thức và biện chứng dụng học. Một sự khác biệt quan trọng là logic phi hình thức tập trung chủ yếu vào mối quan hệ giữa các tiền đề và kết luận, trong khi biện chứng dụng học bao quát tất cả các khía cạnh và giai đoạn của một cuộc TL quan trọng. Ngoài ra, các nghiên cứu logic phi hình thức sử dụng nhiều lí lẽ khác nhau trong khi biện chứng dụng học lại tập trung vào lí lẽ trực tiếp giải quyết sự bất đồng ý kiến. Sự khác biệt thứ ba bắt nguồn từ các cơ sở lí thuyết: trong phân tích lập luận, logic phi hình thức được thiết kế để khám phá các phẩm chất logic của diễn ngôn lập luận; biện chứng dụng học là để kiểm tra các đặc tính ngôn ngữ thực dụng được xem xét trong quá trình tái cấu trúc.

1.1.1.3. Nghiên cứu lập luận từ quan điểm lập luận sai

Tập trung vào các lập luận sai là một đóng góp đáng kể trong nghiên cứu lập luận. Hướng nghiên cứu về lập luận sai (fallacies) có từ thời Aristotle, nhưng mãi tới năm 1970, công trình nổi tiếng Fallacies của C.L. Hamblin mới đặt ra những cách tiếp cận mới. Sau đó, được thực hiện bởi các nhà logic ở Canada: Woods và D. Walton (1989). Cách tiếp cận hình thức của Woods và D. Walton được thể hiện trong một loạt các bài báo và sách được viết chung hoặc độc lập. Các nguyên tắc cơ bản trong phương pháp tiếp cận của họ về các lập luận sai được giải thích trong công trình Lập luận: logic của những lập luận sai (Argument: Logic of the fallacies) (1982). Cách tiếp cận của Woods, D. Walton đối với các lập luận sai là “đa nguyên”. Theo ý kiến của họ, các lập luận sai phải được phân tích theo những cách khác nhau. Quan điểm về phương pháp luận chung là các lập luận sai được phân tích một cách có ý nghĩa từ cấu trúc và lí thuyết về ngôn từ gắn với các hệ thống logic khác nhau, trong đó có hệ thống logic biện chứng. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng sẽ được giải thích theo những kiểu logic nhất định. Theo quan điểm của Woods và D. Walton, chúng sẽ là khác nhau tùy thuộc vào sai lầm trong câu hỏi phản biện. Chính họ đã tuyên bố rằng ít nhất một số ngộ biện/ ngụy biện nên được phân tích bằng một cách nào đó theo tiêu chuẩn hình thức. Khi phân tích lập luận sai, Woods và D. Walton dùng khái niệm biện chứng của Hamblin “bộ cam kết” và “rút lại” là công cụ phương pháp luận. Vì vậy, phân tích của họ về các lập luận sai là theo định hướng hình thức, nhưng cũng biện chứng. Họ có xu hướng xếp những điều mà họ đã nhận ra thành ba mức độ “hình thức”. Đầu tiên, có những lập luận sai (chẳng hạn như lập luận sai 4 cơ sở) mà hình thức đặt theo cách thức nghiêm ngặt. Cấp độ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/06/2022