Khái Niệm Mô Hình Và Mô Hình Vận Động Viên Cấp Cao


CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Khái niệm mô hình và mô hình vận động viên cấp cao

1.1.1. Khái niệm mô hình

Theo từ điển Oxford (Oxford, Dictionary), khái niệm mô hình (Model) là một dạng thức trừu tượng của một hệ thống được hình thành để hiểu hệ thống trước khi xây dựng hoặc xây dựng hệ thống đó. Hay theo nghĩa giải thích rò hơn là một người hay vật là một ví dụ xuất sắc về chất lượng [70]. Từ điển Cambridge: một cái gì đó mà một bản sao có thể được dựa trên vì nó là một ví dụ rất tốt về thể loại của nó [66]. Từ điển Larouse: Những gì được đưa ra để phục vụ như một sự tham chiếu, một kiểu loại hay người hoặc đối tượng sở hữu một số phẩm chất hoặc đặc điểm của việc biến nó thành một kiểu loại hình mẫu hoặc những gì đưa ra để được sao chép lại [69].

Mô hình là một hệ thống hay một vật thể được sử dụng như là một công cụ làm mẫu để làm theo hoặc để mô phỏng.

Mô hình hiểu theo khái niệm rộng và thực tế thì thực chất đó là sự chuẩn mực của một vấn đề nào đó luôn xuất hiện trong cuộc sống hàng ngày của con người như mô hình một xã hội hay mô hình một trường học... Mỗi dạng mô hình có các tiêu chí khác nhau một chuẩn mục riêng để đánh giá. Khái niệm mô hình có thể hiểu là công cụ, nhờ đó giúp thể hiện một sự vật, hiện tượng, quá trình nào đó, phục vụ cho công tác sản xuất và đời sống của con người. Mô hình là công cụ giúp ta thể hiện một sự vật, hiện tượng nào đó phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, học tập, sản xuất và các hoạt động tinh thần của con người, thể hiện mối quan hệ có tính hệ thống giữa các nhân tố.

Mô hình nghiên cứu: Thể hiện mối quan hệ của các nhân tố (các biến) trong phạm vi nghiên cứu, mối quan hệ này cần được phát hiện hoặc qua kiểm chứng. Từ những khái niệm trên, mô hình theo nhiều tác giả là một dạng trình bày của thế giới thực bởi vì hệ thống thực tế thì rất rộng lớn và rất phức tạp không cần thiết phải được mô tả và giải quyết. Mô hình cung cấp một phương tiện để quan niệm hoá vấn đề và giúp chúng ta có thể trao đổi các ý tưởng trong


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

một hình thức cụ thể, không mơ hồ.

Mô hình hoá là một trong những phương pháp được sử dụng rộng rãi trong khoa học và kỹ thuật. Mô hình hoá trong lĩnh vực khoa học có thể là sự tái hiện lại những đặc tính của khách thể này lên khách thể khác. Sự hình thành mang tính chuyên biệt đối với việc nghiên cứu các đặc tính này gọi là mô hình.

Nghiên cứu xây dựng mô hình nữ vận động viên chạy 100m cấp cao Việt Nam - 3

Trong lĩnh vực khoa học TDTT thì mô hình hoá được hiểu đó là tổng hoà các tiêu chí khác nhau (khối lượng và chất lượng) về trạng thái và trình độ tập luyện của VĐV, ví dụ trong huấn luyện thể lực phải dựa trên các chỉ số mô hình đã được xây dựng làm kim chỉ nam cho việc huấn luyện thể lực. Trong việc xây dựng mô hình thì giữa khách thể nghiên cứu và mô hình hoá phải đảm bảo một sự tương thích. Mô hình chỉ có giá trị khi khách thể nghiên cứu có đủ trình độ thích hợp để thực hiện mô hình đó hoặc dựa trên đặc điểm của VĐV để xây dựng mô hình huấn luyện.

Mô hình của Harre (1982): theo Harre, mô hình này được dựa trên giả định rằng chỉ thông qua tập luyện mới có thể xác định là một cầu thủ trẻ có các thuộc tính cần thiết để thành công hay không [14]. Theo đó, Harre nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa càng nhiều VĐV trẻ vào các chương trình huấn luyện càng tốt. Ngoài môi trường đào tạo, Harre cũng cho rằng tài năng sẽ chỉ kết trái khi có sự nuôi dưỡng thích hợp của cha mẹ và hỗ trợ của đồng bạn. Việc công nhận vai trò của những người quan trọng trong việc chuyển hóa tiềm năng thành tài năng phù hợp với nghiên cứu của Bloom (1971) trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Sau khi nhận định vai trò của công tác huấn luyện và môi trường tương tác xã hội của các VĐV đang trong quá trình phát triển, Harre xác định các quy tắc cụ thể sau để phát hiện tài năng:

a. Xác định tài năng thể thao nên được thực hiện trong hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu cần xác định tất cả trẻ em thể hiện năng lực thể thao tốt. Trong giai đoạn thứ hai, những trẻ em này được phân loại theo kỹ năng ứng với các môn thể thao.

b. Xác định tài năng thể thao phải dựa trên các yếu tố vừa quan trọng đối với thành tích cao vừa dựa nhiều trên di truyền.


c. Đặc điểm và khả năng của từng cá nhân phải được đánh giá trong tương quan với mức độ phát triển sinh học.

d. Xác định tài năng thể thao không thể dựa vào các thuộc tính thể chất bên ngoài mà phải kết hợp một số biến tâm lý và xã hội giúp VĐV thành công.

Regnier và các đồng nghiệp (1997) chỉ ra rằng bốn quy tắc này cùng với hai điều kiện ban đầu là cơ sở cho mô hình xác định tài năng thể thao của Harre [14]. Cụ thể, mô hình đề xuất rằng các cá nhân được xác định ban đầu dựa trên các test kiểm tra khả năng khách quan (chiều cao, tốc độ chạy, độ bền, khả năng phối hợp, khả năng vận động trong các tình huống thi đấu và “tính linh hoạt thể thao”) được xây dựng trên tiền đề xác định tài năng thể thao nên căn cứ theo các yếu tố quyết định thành tích ở trình độ thi đấu đỉnh cao.

Dù mô hình của Harre chứa một số đặc điểm tích cực, vẫn có điểm chưa được phát triển đầy đủ và giải thích rò ràng. Ví dụ, Harre nhấn mạnh rằng sự phát triển sinh học có thể ảnh hưởng đến thành tích. Tuy nhiên, phương tiện tính toán tỷ lệ phát triển sinh học chưa được nêu rò. Harre cũng nhấn mạnh sự liên quan của các biến tâm lý và xã hội. Một đặc điểm tích cực khác là việc xem xét tác động mà các yếu tố tâm lý được cho là có khả năng tạo ra cho một cá nhân trên con đường phát triển thành VĐV đỉnh cao. Đặc biệt, thái độ đối với thể thao trong trường học, sự tham gia các hoạt động thể thao ngoại khóa và sự phát triển nhân cách của “người hoạt động xã hội trẻ” lý tưởng được Harre đưa ra [14]. Mô hình cũng nhấn mạnh “tiềm năng để nâng cao”, được đo bằng phản ứng đối với các chương trình huấn luyện trước khi được lựa chọn vào giai đoạn hai, là một vấn đề có vẻ liên quan đến các yếu tố tâm lý xã hội. Khi áp dụng một cách tiếp cận xác định tài năng toàn diện hơn, Havlicek, Komadel, Komarik và Simkova (1982), theo trích dẫn của Regnier và cộng sự, (1997) trình bày một khái niệm mô hình công nhận bản chất đa chiều của thành tích thể thao [77]. Trong khi các thuộc tính thành tích bẩm sinh được xem như là yếu tố quyết định tài năng chính, Havlicek công nhận rằng các yếu tố chịu ảnh hưởng của môi trường cũng có thể ảnh hưởng đáng kể đến tài năng. Do đó, các nhà nghiên cứu ưu tiên các yếu tố bẩm sinh như chiều cao trong khâu lựa chọn tài năng, tiếp


theo là các yếu tố đào tạo được nhưng chịu ảnh hưởng của di truyền (ví dụ như tốc độ) và cuối cùng là các yếu tố có thể được nuôi dưỡng (ví dụ như động lực).

Tuy nhiên, giống như mô hình của Harre, mô hình này không phân biệt giữa các biến đánh giá tiềm năng và hiệu suất. Mô hình của Gimbel (1976), đã chấp nhận cả quan điểm tự nhiên và nuôi dưỡng, và nhấn mạnh nhiều yếu tố quyết định tài năng bao gồm các yếu tố sinh lý và hình thái, khả năng đào tạo và động lực; tất cả đều có thể dẫn đến thành tích thể thao [52]. Nhận thấy sự cần thiết của hoạt động tập luyện theo kế hoạch, Gimbel cho rằng các nhân tài cần được phát hiện trong độ tuổi từ 8 đến 9. Tuy nhiên, mức độ trưởng thành của các yếu tố sinh lý và hình thái đã được xác định là không thể dự đoán được ở đầu thời thơ ấu và do đó Gimbel đề xuất "thời kỳ phục hồi" trong khoảng một năm. Thật không may, đặc điểm này cũng có vấn đề vì những cá nhân được chọn ở bất kỳ giai đoạn nào cũng sẽ được phát hiện dựa trên các yếu tố quyết định thành tích hơn là tiềm năng. Trong khi các yếu tố quyết định thành tích quan trọng đối với khả năng thành công trong môi trường thi đấu thì các yếu tố quyết định tiềm năng sẽ rất quan trọng đối với khả năng tiếp thu các thuộc tính liên quan và phát triển thành công môn thể thao mà một cá nhân chọn. Thật ra, bản thân Gimbel nhận ra rằng không thể dự đoán được tài năng qua các test kiểm tra do sự khác biệt về tuổi sinh học giữa các trẻ em; rò ràng là ủng hộ quan điểm xem trọng các yếu tố quyết định tiềm năng. Một cách tích cực, Gimbel công nhận tầm quan trọng của các biến tâm lý và nêu bật việc cách các biến này bị phớt lờ như thế nào trong các mô hình dự báo. Theo đó, ông ủng hộ việc xác định các yếu tố tâm lý quyết định thành tích. Tuy nhiên, một lần nữa không có ai chú ý đến các thuộc tính hứa hẹn sự phát triển thành công trong thể thao.

Montpetit và Cazorla (1982) đã mở rộng mô hình của Gimbel (1976, theo trích dẫn của DurandBush & Salmela, 2001) [63] để thêm các chi tiết liên quan đến việc phát hiện các yếu tố hình thái và sinh lý quyết định thành tích. Theo họ, hồ sơ của các VĐV đỉnh cao ban đầu dựa trên các quy trình kiểm tra sinh lý thông thường. Sự ổn định của các biến này sau đó sẽ được xác minh thông qua kiểm tra dài hạn và chỉ khi đó các biến mới có thể được áp dụng cho các nhóm


VĐV trẻ hơn. Bompa (2015), người đã phát triển một khái niệm mô hình về xác định tài năng thể thao dựa trên hệ thống sau đó thường được sử dụng trong các nước Đông Âu, đưa ra một đề xuất tương tự. Mô hình của ông nhấn mạnh ba nhóm yếu tố quyết định thành tích, cụ thể là: (1) năng lực vận động (kỹ năng tri giác và vận động, sức bền, sức mạnh và công suất), (2) năng lực sinh lý và (3) đặc điểm hình thái. [65]

Mô hình của Simoton (1999): Một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về việc xác định mô hình tài năng thể thao và phát triển mô hình là giáo sư Keith Simoton đến từ đại học California [101]. Năm 1999, ông xuất bản công trình nghiên cứu về mô hình tài năng thể thao “Talent and its development: An emergenic and epigenetic model” (Tài năng và sự phát triển của chúng: Sự nổi bật và mô hình biểu sinh) đã gây tiếng vang lớn, đồng thời là tiền đề của rất nhiều công trình nghiên cứu sau này, mang đến cái nhìn khá toàn diện, đa chiều về các mặt: xây dựng dưới dạng một mô hình biểu sinh gồm 2 phần. Phần mô hình nổi bật được xử lý các dữ liệu có tính đặc trưng vùng miền, nghiên cứu cắt ngang theo luật phân phối (cross sectional distribute) và khả năng dự đoán, di sản truyền thống gia đình và độ phức tạp của vùng miền. Phần mô hình biểu sinh xử lý các dữ kiện cho việc trưởng thành cho thành tích sớm và muộn, các dấu hiệu nhận dạng ban đầu, nghiên cứu cắt ngang trong suốt thời gian duy trì thành tích thể thao, sự suy giảm thành tích và thay đổi trong lĩnh vực tài năng và dự đoán theo chiều dọc. Bên cạnh việc giải thích dữ liệu nghiên cứu theo cắt ngang và dọc có sẵn, mô hình kết quả có ý nghĩa quan trọng để điều tra sự phát triển của thành tích thể thao trong tất cả các lĩnh vực tài năng, thậm chí có thể ứng dụng trong một số lĩnh vực khác thuộc tài năng về giáo dục, nghệ thuật và giải trí.

Tóm lại: phần lớn các khái niệm mô hình đã được phát triển để lập nên một khung lý luận khoa học giúp các nhà nghiên cứu và chuyên môn phát triển công cụ xác định tài năng thể thao cho các môn thể thao (Simonton, 1999) [103]. Tuy nhiên, có phần nghịch lý là các thuộc tính là yếu tố quyết định tài năng được xác định trong các khái niệm mô hình dường như cần củng cố thêm


cơ sở khoa học. Điển hình, nhiều khái niệm mô hình có vẻ chưa xử lý được ý kiến trái chiều tự nhiên-nuôi dưỡng và dựa trên quan niệm ủng hộ các chỉ số 'bẩm sinh' của tài năng. Điều này đã dẫn đến việc tài năng chỉ được đánh giá bằng một vài biện pháp đơn giản (ví dụ: trọng lượng, sức chịu đựng và sức mạnh) được giả định phát triển theo xu hướng tuyến tính/dự đoán được. Dù ban đầu điều này làm người ta ngạc nhiên vì xác định tài năng thể thao lại dựa trên các phương pháp đơn giản như vậy, Chauveau (1999) nhấn mạnh rằng, khi cố gắng hiểu các hiện tượng được coi là phức tạp, việc đơn giản hóa một khái niệm thành một vài biện pháp đơn giản là "phản xạ tự nhiên".

1.1.2. Mô hình vận động viên cấp cao

Theo Đàm Quốc Chính [8], thể thao thành tích cao là bộ phận cấu thành nền TDTT xã hội. Mục đích của thể thao thành tích cao là vươn tới các thành tích kỷ lục. Động cơ thành tích đã thúc đẩy các hoạt động khoa học thể thao nhằm tìm ra những biện pháp, phương pháp, yếu tố nhằm khai thác tối đa khả năng của con người trong việc vươn tới những thành tích đó.

TTTT là chỉ số tài năng của VĐV được thể hiện bằng kết quả cụ thể, trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của môn thể thao nhất định được biểu hiện bằng mức độ các chỉ số về chất lượng hoặc số lượng tuỳ thuộc vào môn thể thao đặc thù. TTTT cao nhất mà VĐV đạt được tương đương với thành tích cấp quốc gia, cấp quốc tế theo mức độ tiêu chí đánh giá cụ thể trong các cuộc thi đấu chính thức được công nhận là VĐV cấp cao, Theo AulicI. V. [2], Dương Nghiệp Chí [7].

Thành tích của VĐV thể thao cấp cao phụ thuộc vào trình độ kỹ thuật, chiến thuật, tâm sinh lý và các điều kiện khác, những yếu tố này có liên quan mật thiết với nhau. Trong quá trình thi đấu, VĐV cấp cao phải có khả năng đáp ứng các yêu cầu về phương diện thể chất như:

- Khả năng thực hiện các bài thi với thời gian kéo dài.

- Khả năng hoàn thiện các bài tập với cường độ cao.

- Khả năng chạy tốc độ.

- Khả năng phát lực tốt thông qua một động tác đơn lẻ.


Theo các tác giả AulicI.V [2], Dương Nghiệp Chí [7], Lê Nguyệt Nga [29], Phạm Ngọc Viễn [52], các nhân tố cấu thành trình độ cấp cao được thể hiện ở sự nâng cao về năng lực thể thao (các tiền đề để đạt thành tích cao) là hình thái cơ thể, các đặc điểm về sinh lý, sinh hóa, tuổi sinh học, các tố chất thể lực, khả năng tiếp thu kỹ-chiến thuật, khả năng chịu đựng LVĐ, phẩm chất tâm lý. Nói một cách khác, sự biểu hiện thành tích cao của VĐV bằng các chỉ số cụ thể ở một môn thể thao nào đó còn được gọi là tài năng thể thao.

Theo Nguyễn Thành Lâm [22] thì: trong lĩnh vực thể dục thể thao, người tài thể thao là người có đặc tính riêng biệt và sáng tạo trong lĩnh vực năng lực thể chất của con người. Năng lực là một đặc trưng tâm lý, nói lên người đó có thể làm gì, làm đến mức nào, làm với chất lượng ra sao, thông thường người ta gọi là khả năng hay "tài". Tuy nhiên năng lực phát triển trên khả năng và là một bậc cao so với khả năng. Năng lực chỉ nảy sinh và quan sát được trong hoạt động giải quyết yêu cầu mới mẻ và do đó gắn liền với tính sáng tạo. Mọi năng lực khi đã hình thành và ổn định đều đi vào khả năng.

Mỗi thời điểm khác nhau sẽ có mô hình khác nhau, mọi dự đoán sẽ thay đổi bởi đặc trưng mô hình sẽ lạc hậu không còn phù hợp. Đặc trưng mô hình là những đặc điểm nổi trội của VĐV, dựa vào mô hình tìm ra để soạn thảo, định hướng quá trình HL cho phù hợp với những mặt mạnh, mặt yếu, năng lực thi đấu của VĐV. Ngoài mô hình mang tính thực nghiệm còn có mô hình lý thuyết trên cơ sở của mô hình thực nghiệm và các nhân tố quan trọng đóng vai trò trọng yếu tạo nên thành tích thi đấu thể thao.

Theo tác giả Phan Hồng Minh (2000) [26] để có mô hình đúng, phải miêu tả chính xác mô hình, lập các chỉ tiêu khoa học, đánh giá chuẩn thực trạng hiện tại và dự báo phát triển sắp tới cũng như tương lai. Đặc trưng mô hình không được mơ hồ và khó xác định bản thân tài năng thể thao về các mặt, phải có mô hình biểu hiện chỉ tiêu cụ thể quan trọng.

Tác giả Nguyễn Toán (1998) [46] cho rằng: muốn xác lập được mô hình lý tưởng phải xem xét phải tính toán toàn diện vai trò, mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đặc trưng mô hình cấu trúc, đồng thời đề ra các nội dung, chỉ tiêu


trắc nghiệm định lượng thích hợp. Đặc trưng mô hình là cấu trúc về các yếu tố quyết định năng lực thể thao của VĐV cấp cao, các năng lực trên phụ thuộc vào mức độ kỹ thuật, trình độ chiến thuật trong thi đấu.

Theo Lê Nguyệt Nga (2013) [22, 24], sự khác biệt chuyên môn của từng môn thể thao dẫn đến việc hình thành những đặc trưng riêng và chung trong từng môn về các mặt hình thái cơ thể, tố chất thể lực, sinh lý, tâm lý. Mục đích của việc xác định mô hình đặc trưng là xác định hệ thống năng lực thi đấu của VĐV, từ đó xác định cấu trúc các nhân tố cấu thành TTTT cao nhất của các đặc trưng riêng đó. Chắc chắn rằng các chỉ số về hình thái là những yếu tố giới hạn thành tích trong nhiều môn thể thao, bởi vì chúng hầu như không chịu tác động của tập luyện, là những tiền đề của môn thể thao nào đó chứ không phải là điều kiện đảm bảo cho TTTT.

Từ quan điểm trên Lê Nguyệt Nga xác định mô hình đặc trưng có nghĩa là xác định những yêu cầu mà VĐV cấp cao trong một số môn thể thao phải đáp ứng được. Mô hình là tổng hợp các thông số khác nhau quy định một mức độ nhất định của tài nghệ thể thao và TTTT, các chỉ số bộ phận trong thành phần của mô hình được xem là những đặc trưng (hay đặc tính) của mô hình. Để xác định đặc trưng của mô hình người ta tiến hành các khảo sát ở những VĐV cấp cao với mục đích tìm ra các đặc điểm mang tính quyết định để VĐV chuẩn bị đạt được thành tích cao trong quá trình thi đấu thể thao.

Theo tác giả Dương Nghiệp Chí, Lâm Quang Thành, Trần Đức Dũng, Nguyễn Danh Hoàng Việt, Đặng Văn Dũng (2003) xác định VĐV ưu tú là người có tài năng, mà chỉ ở họ mới có những đặc điểm đáng để nghiên cứu, hoặc đáng để xác lập mô hình. Năng lực thi đấu của VĐV cần thiết để tham gia thi đấu chuyên môn đều được cấu thành bởi thể lực và chức năng cơ thể, kỹ năng, năng lực chiến thuật, năng lực tâm lý, năng lực trí tuệ. Xây dựng mô hình kết cấu đặc điểm VĐV ưu tú có thể khái quát một cách khoa học là mô tả chuẩn xác những đặc điểm chung này để đưa ra hệ quy chuẩn xác định mục tiêu HL nâng cao năng lực thi đấu [7].

Tóm lại, Mô hình VĐV cấp cao là sự tổng hoà các đặc điểm quan trọng

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 09/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí