Hiện Trạng Nhân Sự Cho Phát Triển Ứng Dụng Công Nghệ Địa Không Gian

68

+ Máy tính để bàn 6: Cấu hình: Ổ cứng HDD 500 GB, chip xử lý Intel Core i3, Celeron hoặc Pentium, card màn hình on-board, màn hình hiển thị 14 inch. Năm đưa vào sử dụng 2016.

+ Máy tính xách tay: 02, phục vụ ban giám đốc: Cấu hình: MTXT Dell XPS13 9360 i7-7500U/16Gb DDR3/512GSSD/cảm ứng. Dự án tài trợ, năm đưa vào sử dụng: 2020.

- Hệ thống email dùng riêng (cá nhân)

- Không có địa chỉ Website về Vườn quốc gia Nam Ka Đinh.

Với kết quả về hiện trạng cơ sở hạ tầng trên là nền tảng quan trọng trong ứng dụng hệ thống công nghệ địa không gian, số lượng máy tính, đường truyền kết nối mạng và cấu hình máy tính để bàn đáp ứng yêu cầu kỹ thuật tối thiểu cho việc ứng dụng công nghệ địa không gian trong quản lý tài nguyên rừng tại VQGNKĐ.

3.1.3.2. Hiện trạng phần mềm ứng dụng

Hiện trạng phần mềm ứng dụng và tình trạng sử dụng được thống kê trong bảng 3.3.

Bảng 3.3. Phần mềm hỗ trợ công tác quản lý tại VQGNKĐ



TT


Tên phần mềm

Đối tượng

người dùng

Tình trạng sử

dụng hiện nay

Đánh giá khả

năng ứng dụng


1

Word 2019

Professional Plus

Chuyên viên

VQGNKĐ


Tốt


Tốt


2

Excel 2019

Professional Plus

Chuyên viên

VQGNKĐ


Tốt


Tốt

3

MicroStation

Không

Không

Không

4

MapInfo

Không

Không

Không

5

ArcGIS

Không

Không

Không

6

ENVI

Không

Không

Không

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 193 trang tài liệu này.

(nguồn: kết quả điều tra và tính toán của NCS: Bakham, 2020)


- Các số liệu quản lý thông tin tại VQGNKĐ được lưu dưới dạng Word, Excel và dạng XML

Việc ứng dụng phần mềm trên cho thấy, Ban quản lý VQGNKĐ mới chỉ ứng dụng 2 phần mềm Word và Excel 2019 để phục vụ công tác văn phòng, và xử lý tính toán thống kê cũng như lập dự toán một số hạng mục đầu tư xây dựng cơ bản nhỏ, một số đề tài nghiên cứu cấp tỉnh và cấp bộ được thực hiện tại VQGNKĐ.

Các phần mềm chuyên dụng, phục vụ cho công nghệ địa không gian như ArcGis; EVNI; Mapinfo; QGIS, v.v, chưa được ứng dụng trong quản lý tài nguyên rừng tại VQGNKĐ. Đây là một trong số những hạn chế và thiếu nền tảng cho việc triển khai ứng dụng công nghệ địa không gian trong quản lý tài nguyên rừng tại ban quản lý VQGNKĐ.

3.1.3.3. Hiện trạng nhân sự cho phát triển ứng dụng công nghệ địa không gian

Căn cứ Quyết định số 42 QĐ-BLN ngày 03/8/2018 của Bộ Trưởng Bộ Nông Lâm nghiệp Lào về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và chỉ tiêu biên chế Ban quản lý VQGNKĐ. Ban quản lý được giao biên chế ổn định gồm 16 biên chế. Tổng số 16 biên chế được tuyển dụng và đang làm việc trong Ban quả lý gồm cấp bậc, trình độ và chuyên môn đào tạo được thống kê trong bảng 3.4.

Bảng 3.4. Trình độ và chuyên môn đào tạo của cán bộ, nhân viên Ban quản lý VQGNKĐ


TT


Bộ phận/phòng

Số lượng

Trình độ đào tạo


Chuyên môn

Bằng

Chứng chỉ


1


Ban giám đốc


3


Ths, KS

Tin học văn phòng B


Lâm nghiệp


2

Phòng Kế toán - Hành chính


3

Trung cấp - Cử nhân

Tin học văn phòng B

Kinh tế và Quản trị kinh doanh



TT


Bộ phận/phòng

Số lượng

Trình độ đào tạo


Chuyên môn

Bằng

Chứng chỉ


3

Phòng Kỹ thuật lâm sinh


5


KS

Tin học văn phòng B


Lâm nghiệp


4

Phòng Bảo vệ rừng


5

Trung cấp; KS

Tin học văn phòng B

Nông, Lâm nghiệp

Tổng

16




(nguồn: kết quả điều tra và tính toán của NCS: Bakham, 2020)

Kết quả thống kê về trình độ và chuyên môn đào tạo trên cho thấy, đa phần cán bộ, nhân viên có chuyên môn về lâm nghiệp, trừ Phòng Kế toán- Hành chính. Trong ban quản lý, không có cán bộ, nhân viên nào được đào tạo về công nghệ thông tin hay có các chứng chỉ đào tạo về nghiệp vụ công nghệ thông tin. Điều đó cho thấy, để triển khai ứng dụng công nghệ địa không gian trong quản lý tài nguyên rừng tại ban quản lý VQGNKĐ là rất khó khăn và gặp nhiều trở ngại nếu số cán bộ được biên chế không được bồi dưỡng chuyên sâu về công nghệ địa không gian.

3.1.4. Các yếu tố chính ảnh hưởng đến công tác quản lý tài nguyên rừng tại khu vực VQGNKĐ

Qua kết quả điều tra thực tế tại hiện trường, kết hợp phỏng vấn người dân địa phương, cùng với một số lãnh đạo Ban quản lý VQGNKĐ, lãnh đạo huyện và Ủy ban bản (xã Việt Nam). Các yếu tố gây ảnh hưởng xấu đến công tác quản lý tài nguyên rừng khu vực bao gồm:

4.1.4.1. Các nguyên nhân nội tại của khu vực VQGNKĐ

Mặc dù công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng tại địa phương đã đạt được nhiều thành tựu nhưng bên cạnh đó vẫn còn thể hiện một số vấn đề hạn chế như sau:


(i). Hạn chế của công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng liên quan tới điều kiện tự nhiên, KT-XH

- Công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng gặp nhiều khó khăn do địa hình hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu thốn. Hơn nữa, khu vực VQGNKĐ còn số đông dân cư sống phu thuộc vào rừng, v.v. Do vậy, áp lực xâm hại đến tài nguyên rừng rất lớn.

- Chế độ, chính sách đối với lực lượng tham gia bảo vệ tài nguyên rừng chưa đáp ứng được với nhiệm vụ thực tế nên chưa động viên, khuyến khích mọi lực lượng tham gia một cách chủ động và tích cực.

- Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân và các cấp chính quyền cơ sở còn hạn chế và còn mang tính hình thức. Nhận thức của một số người dân ở gần rừng còn hạn chế, việc ký cam kết bảo vệ rừng ở các thôn, bản cũng còn mang nặng về hình thức, v.v. Do đó, cùng với công tác tuyên truyền cần có những biện pháp xử lý nghiêm khắc để người dân có ý thức chấp hành tốt hơn công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng.

- Chủ trương xã hội hóa công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng bước đầu được thực hiện. Tuy nhiên, chưa được quy định rõ và thực hiện nghiêm túc; một số cộng đồng địa phương chưa chủ động trọng việc thực hiện các biện pháp quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, chưa phát huy vai trò trong việc phát hiện sớm lửa rừng để tổ chức xử lý khi đám cháy mới phát sinh.

- Lực lượng quản lý bảo vệ tài nguyên rừng trên địa bàn đã được tổ chức có hệ thống nhưng hiệu quả chưa cao, chưa xây dựng được các tổ đội chuyên nghiệp. Hiện chưa có mô hình cộng đồng tham gia thực sự chủ động trong công tác quản lý bảo vệ rừng tại VQGNKĐ.

(ii). Hạn chế của công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng liên quan tới khoa học-công nghệ

- Năng lực trình độ và nghiệp vụ kỹ thuật của lực lượng bảo vệ rừng và quản lý bảo vệ tài nguyên rừng trên địa bàn VQGNKĐ chưa thật cao, chưa


được đào tạo bài bản. Công tác phối kết hợp giữa các ngành, các bên liên quan chưa dược thường xuyên. Các phương án quản lý bảo vệ tài nguyên rừng được xây dựng theo các giai đoạn, có điều chỉnh bổ sung hàng năm nhưng chưa có bản đồ phục vụ cho công tác quản lý. Bản đồ phân khu chưa được tổ chức thực hiện nên đã hạn chế tới hiệu quả của công tác quản lý.

- Lực lượng Kiểm lâm được giao nhiệm vụ là nòng cốt trong công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, nhưng lại rất mỏng và phân tán; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về quản lý bảo vệ tài nguyên rừng còn hạn chế. Đầu tư phương tiện, trang thiết bị cho công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng, thông tin liên lạc chưa đáp ứng được yêu cầu.

- Công tác chỉ đạo, điều hành chậm do không nắm bắt được thông tin kịp thời và chính xác, thiếu phương tiện, trang thiết bị phục vụ chỉ đạo, chỉ huy. Sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia quản lý bảo vệ rừng chưa thật nhịp nhàng, hiệu quả thấp, chưa phân định rõ nhiệm vụ và cơ chế phối hợp giữa các cấp, các ngành trong quản lý bảo vệ tài nguyên rừng.

- Diện tích rừng của Vườn rộng lớn nhưng các công trình phục vụ quản lý bảo vệ tài nguyên rừng còn rất ít.

Những hạn chế nêu trên sẽ là căn cứ quan trọng cho việc đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý bảo vệ tài nguyên rừng tại khu vực VQGNKĐ. Đặc biệt trong đó là những giải pháp khoa học công nghệ, đề xuất mô hình quản lý dựa vào công nghệ viễn thám cho khu vực nghiên cứu.

(iii). Khai thác gỗ, nhất là loài cây có giá trị cao, gây nên suy thoái rừng

Hàng năm, theo nghi nhận của các cấp, ban ngành có trách nhiệm, số vụ vi phạm lâm luật như khai thác gỗ nói riêng và lâm sản nói chung trái phép tại VQGNKĐ còn rất cao, số vụ khai thác gỗ của lâm tạc chủ yếu là khai thác cây gỗ lớn, có giá trị cao, những loài cây lâm tặc chọn khai thác trộm chủ yếu là loài cây họ Dầu. Những năm trước đây (chưa đóng cửa rừng tự nhiên), gỗ được lâm tặc khai thác thường được vận chuyển nguyên cây sang Việt Nam

73

tiêu thụ thông qua các tỉnh Trung Lao. Trong 3 năm trở lại đây, từ khi Chính phủ Lào đóng cửa rừng tự nhiên (năm 2017), gỗ khai thác được lâm tặc sơ chế và đóng đồ nội thất ngay tại địa phương thông qua một số cơ sở sản xuất, chế biến của người Việt Nam và Trung Quốc. Lâm tặc tham gia khai thác thường là người địa phương, sống gần và trong vùng đệm VQGNKĐ, họ khai thác không những bán cho cơ sở sản xuất mà họ còn tích trữ một lượng lớn gỗ hộp tại nhà riêng để làm nhà cho các con khi trưởng thành. Ngay tại thời điểm điều tra, tác giả luận án gặp trực tiếp 2 vụ khai thác trái phép và xẻ hộp ngay tại kiểu rừng hỗn giao lá rộng thường xanh nửa rụng lá, hình ảnh lâm tặc khai thác được ghi tại hiện trường, hình 3.2)

Hình 3 2 Hình ảnh lâm tặc khai thác và xẻ hộp gỗ Sao đen Khai thác các loại 1

Hình 3.2. Hình ảnh lâm tặc khai thác và xẻ hộp gỗ Sao đen

- Khai thác các loại lâm sản phi gỗ: Hoạt động khai thác lâm sản ngoài gỗ diễn ra quanh năm với mức độ khai thác phụ thuộc vào mức độ sẵn có của từng vùng giáp ranh với VQGNKĐ. Nguyên nhân là do nhu cầu thị trường cao; do sinh kế của người dân địa phương; đối với một số vùng do dân thiếu việc làm và tìm kiếm thu nhập thay thế là nguồn bổ sung cho thu nhập gia đình.

- Khai thác củi, đốt than, chăn thả gia súc, đánh bắt cá bằng các thiết bị hủy diệt, xâm lấn đất rừng làm nương rẫy, v.v. cũng là một trong những mối


đe dọa trực tiếp ảnh hưởng đến môi trường, làm suy giảm đáng kể chất lượng rừng. Nguyên nhân chủ yếu là do thiếu đất sản xuất để ổn định cuộc sống, do tập quán, thói quen xấu cần phải được thay đổi của người dân nơi đây.

Như vậy, áp lực về đời sống của người dân trong vùng đệm là mối đe dọa lớn đối môi trường rừng ở khu vực VQGNKĐ. Vì vậy, vấn đề đầu tiên trong công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng và phát triển rừng ở đây là nâng cao nhận thức về luật pháp và giải quyết sinh kế cho người dân vùng lõi và vùng đệm của Vườn Quốc gia Nam Ka Đinh.

(iv). Chuyển đổi đất và lấn chiếm đất rừng gây mất rừng

Nguyên nhân thứ 2 là chuyển đổi đất rừng sang đất làm nương rẫy, thậm chí chuyển sang đất trồng cây công nghiệp (trồng cây Cao su). Theo thống kê, hành năm khoảng 50 ha được phát rẫy, làm nương mới của đồng bào sống trong khu vực vùng đệm VQGNKĐ, kiểu rừng khộp và rừng hỗn giao cây lá rộng với cây lá kim là 2 kiểu rừng chính được làm nương rẫy của đồng bào nơi đây. Đây là 2 kiểu rừng có số loài cây họ Dâu, cây Pơ mu, Cẩm liên, Sến đỏ phân bố tự nhiên nhiều. Ở kiểu rừng hỗn giao tre nứa, khu vực thuộc các huyện quản lú được giao cho các hộ trong bản sống trong khu huyện quản lý, đã có một số hộ khai thác tráng để trồng cây Cao su theo chương trình liên kết với tập đoàn Cao su Lào-Việt Nam.

(v). Phong trào trồng cây, gây rừng tại địa phương và VQGNKĐ

Nhằm hỗ trợ cho bảo vệ và phát triển rừng, giải quyết các nguyên nhân mất rừng khu vực Vườn Quốc gia Nam Ka Đinh và các địa phương trong khu vực, qua đó giảm phát thải do mất rừng, suy thoái rừng và tăng hấp thụ do phục hồi, tái tạo rừng, Bộ Nông Lâm Lào, sở Nông Lâm Bolikhamsay đã và đang thực hiện Chương trình Giảm phát thải vùng Bắc Trung Lào. Trong những năm qua, Bộ Nông Lâm và sở Nông Lâm Bolikhamsat và Ngân hàng Thế giới (WB)-cơ quan nhận ủy thác của Quỹ Đối tác các-bon trong lâm nghiệp (FCPF) ký kết Thỏa thuận Chi trả giảm phát thải Chương trình giảm


phát thải vùng Bắc Trung Lào. Với Thỏa thuận này, Lào chuyển nhượng cho FCPF 10,3 triệu tấn CO2 giảm phát thải từ rừng tại vùng Bắc Trung Lào và FCPF sẽ thanh toán cho dịch vụ này là 51,5 triệu USD để triển khai một số dự án trồng rừng trên phạm vi toàn tỉnh và VQGNKĐ. Do nhờ có chương trình này, mà hăng trăm ha rừng trồng Bạch đàn Urophylla và rừng trồng Tếch được trồng thêm mới trên đất lâm nghiệp thuộc VQGNKĐ trong giai đoạn nghiên cứu. Một số hình ảnh trồng rừng trong khu vực VQGNKĐ.

Hình 3 3 Hình ảnh trồng cây gây rừng ở khu vực Vườn Quốc gia Nam Ka Đinh iv 2

Hình 3.3. Hình ảnh trồng cây gây rừng ở khu vực Vườn Quốc gia Nam Ka Đinh

(iv). Thực hiện tốt đề án khoanh nuôi, xúc tiến tai sinh tự nhiên và bảo vệ rừng tự nhiên

Nhờ thực hiện tốt đề án mà VQGNKĐ bảo vệ, phát triển và sử dụng hiệu quả, bền vững diện tích rừng hiện có, góp phần đáp ứng các yêu cầu về giảm nhẹ thiên tai, bảo vệ môi trường sinh thái, ứng phó với biến đổi khí hậu.

Đặc biệt, VQGNKĐ tiếp tục thực hiện nghiêm Chỉ thị của Thủ tướng chinh phủ Lào về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quản lý, bảo vệ và phát triển rừng; chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ về đóng cửa rừng

Xem tất cả 193 trang.

Ngày đăng: 11/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí