NỘI DUNG
Chương 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.1. Khái niệm Văn hóa
Theo Federico Mayor tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hoá họp tại Venise năm 1970 xác định: “Văn hoá bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” (Tạp chí Người đưa tin UNESCO, 11/1989, tr.5).
Trong tuyên bố về những chính sách văn hóa tại Hội nghị Quốc tế năm 1982 tại Mexico, UNESCO đã trình bày một định nghĩa cụ thể hơn về văn hóa “Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng suy xét về bản thân. Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lí tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lí. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tự biết mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu của bản thân, tìm tòi không biết mệt những ý nghĩa mới mẻ và sáng tạo nên những công trình vượt trội lên bản thân” [42, tr.23-24].
Còn ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo dức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [42, tr.21].
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - 1
- Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên - 2
- Bài Học Kinh Nghiệm Trong Phát Triển Du Lịch Văn Hóa
- Lịch Sử Hình Thành Và Phát Triển Huyện Định Hóa
- Các Loại Hình Dân Ca Dân Vũ Tiêu Biểu Của Định Hóa
Xem toàn bộ 133 trang tài liệu này.
Hay nói như Cựu Thủ tướng Phạm Văn Đồng là “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình
cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh”. [42, tr.21-22.].
Như vậy, văn hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong quá trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường xung quanh (môi tự nhiên và xã hội) và tính cách của từng tộc người, nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác và do được chi phối bởi môi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng. Chính điều này đã góp phần quan trọng trong việc tạo nên sức hút, hấp dẫn khách du lịch khao khát khám phá, trải nghiệm các giá trị văn hóa độc đáo mang tính bản sắc của những vùng/miền/quốc gia khác nhau.
1.1.2. Khái niệm Du lịch
Năm 1963, tại hội nghị LHQ về Du lịch họp tại Roma, các chuyên gia đã đưa ra định nghĩa về Du lịch như sau: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ hay ngoài nước họ với mục đích hòa bình. Nơi họ đến lưu trú không phải là nơi làm việc của họ”. Trên tinh thần đó, trong khoản 1, Điều 4, Chương I của Luật Du lịch Việt Nam 2005: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [20, tr.2].
Như vậy, du lịch là sự di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm mục đích phục hồi sức khỏe, nâng cao tại chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hóa và dịch vụ do các cơ sở chuyên nghiệp cung ứng. Đồng thời, du lịch cũng là một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu nảy sinh trong quá trình di chuyển và lưu trú tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú thường xuyên với mục đích phục hồi sức khỏe và nâng cao nhận thức tại chỗ về thế giới xung quanh. Hay nói cách khác, du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.
1.2.3. Mối quan hệ giữa du lịch và văn hóa
1.2.3.1. Văn hóa là cơ sở, là nguồn lực để phát triển du lịch
Du lịch, kể từ khi nó hình thành đã có sự gắn kết chặt chẽ với văn hóa, bởi văn hóa giữa các vùng miền, các khu vực là không giống nhau và luôn chứa đựng những điều bất ngờ, luôn khơi gợi sự tò mò, hấp dẫn du khách. Họ đi du lịch để thỏa mãn nhu cầu khám phá những giá trị văn hóa mới, khác lạ với cái họ đang có, là cách mà mỗi người mở rộng không gian văn hóa cho bản thân mình. Cái mới, khác lạ đó chính là bản sắc văn hóa của mỗi tộc người (ẩm thực, lễ hội, trang phục, kiến trúc…), là cảnh quan thiên nhiên thơ mộng cùng những điều kiện tự nhiên hấp dẫn (rừng núi, sông hồ, nắng mưa), là những di tích, thắng cảnh gắn liền với lịch sử của từng dân tộc… Qua những chuyến du lịch, trình độ hiểu biết về các giá trị văn hóa của con người được nâng cao. Đi du lịch là cơ hội để du khách có thể sở hữu những sản phẩm mang thương hiệu riêng của từng vùng miền, tộc người, đó có thể là sản phẩm thủ công hay món ăn truyền thống… Như vậy, một địa phương muốn phát triển du lịch thì điều kiện tiên quyết là phải có những sản phẩm văn hóa khác lạ, độc đáo và hấp dẫn. Văn hóa càng có sự khác biệt, có bản sắc riêng bao nhiêu thì càng có khả năng thu hút khách du lịch bấy nhiêu.
1.2.3.2. Tác động của du lịch đối với văn hóa
Du lịch giúp mở rộng giá trị của sản phẩm văn hóa. Nếu không có du lịch, sản phẩm văn hóa chỉ đơn thuần có giá trị lịch sử, nghệ thuật hay khoa học không thể một năm đóng góp một giá trị kinh tế nhất định cho nền kinh tế quốc dân. Hoạt động du lịch giúp bảo tồn, duy trì lâu bền những giá trị văn hóa đang dần mai một hoặc bị phá hủy bởi thời gian, bởi sự lãng quên của người dân bản địa. Du lịch giúp các điểm du lịch văn hóa thu lợi nhuận hàng năm và có kinh phí để đầu tư quay trở lại đối với cơ sở hạ tầng và công tác bảo tồn văn hóa cũng như góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Thông qua sự tiếp xúc giữa khách du lịch và cư dân bản địa, văn hoá của khách du lịch và cộng đồng dân cư nơi khách đến được trau dồi và nâng cao. Du lịch tạo khả năng cho con người mở mang, tăng cường sự hiểu biết về lịch sử truyền thống, văn hoá, phong tục tập quán, đạo đức,… Như vậy, du lịch đã làm giàu thêm khả năng thẩm mỹ, tôi luyện tình cảm, thoải mái tinh thần khi được tham quan kho tàng văn hoá nghệ thuật của đất nước, một vùng, một địa phương. Hơn thế nữa, du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn và nâng cao truyền thống dân tộc. Cộng đồng dân cư địa phương cũng
thấy được sự hấp dẫn của văn hoá bản địa, nhận thức ngày một sâu sắc việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá của địa phương.
Tuy nhiên do tính chất tương tác giữa khách du lịch và điểm đến nên trong quá trình du khách thâm nhập vào các hoạt động văn hóa của địa phương có thể sẽ xảy ra tình trạng thâm nhập với mục đích lạm dụng và sự thâm nhập biến thành sự xâm hại. Do nhu cầu của khách, vì lợi ích kinh tế trước mắt nên các hoạt động văn hóa truyền thống được trình diễn một cách không tự nhiên, giá trị văn hóa trở thành trò tiêu khiển, mua vui cho du khách, giá trị truyền thống dần bị lu mờ do sự lạm dụng vì mục đích kinh tế. Do chạy theo số lượng, không ít mặt hàng truyền thống được chế tác lại để làm hàng lưu niệm cho du khách, sản xuất cẩu thả đã làm méo mó giá trị chân thực của truyền thống, làm sai lệch hình ảnh của một nền văn hóa bản địa. Một trong những xu hướng thường thấy ở các nước nghèo đón khách từ các nước giàu dẫn tới cư dân địa phương, nhất là giới trẻ ngày càng chối bỏ truyền thống và thay đổi cách sống theo mốt của du khách, làm mất dần những giá trị truyền thống đẹp. Đồng thời, theo thời gian, sự xuất hiện ngày càng nhiều người khách lạ mặt tại nơi ở của dân cư địa phương khiến thái độ của cộng đồng đối với du khách thay đổi dần từ tích cực sang tiêu cực làm mất đi nét đẹp trong văn hóa ứng xử, tiếp khách của cộng đồng địa phương.
1.2. Du lịch văn hóa
1.2.1. Định nghĩa, đặc điểm và vai trò
1.2.1.1. Định nghĩa
Hiện nay, trên thế giới và trong nước có rất nhiều khái niệm khác nhau về du lịch văn hóa, cụ thể như sau:
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những di tích và di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp vào việc duy tu, bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng vì những lợi ích văn hóa – kinh tế - xã hội” (ICOMOS).
Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) cũng đưa ra khái niệm khác về du lịch văn hóa “Du lịch văn hóa bao gồm hoạt động của những người với động cơ chủ yếu là nghiên cứu, khám phá về văn hóa như các chương trình nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật biểu diễn, về các lễ hội và các sự kiện về văn hóa khác nhau, thăm các đền đài, du lịch nghiên cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương”.
Khoản 20, Điều 4, Chương I, Luật du lịch Việt Nam, 2005, quy định: “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống” [20, tr.3].
Như vậy, du lịch văn hóa là lĩnh vực du lịch khai thác tài nguyên du lịch văn hóa, các dịch vụ thích hợp nhằm tạo ra các sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của du khách. Du lịch văn hóa lấy văn hóa làm tài nguyên du lịch. Loại hình du lịch này vừa có tính lực chọn khách lại vừa mang tính giáo dục nhận thức, đồng thời giúp bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa và là cầu nối cho việc giao lưu văn hóa giữa các vùng miền. Loại hình du lịch này hiện nay đang rất phổ biến trên thế giới.
1.2.1.2. Đặc điểm
- Tính đa dạng: du lịch văn hóa với chất lượng cao được tạo nên bởi sự đa dạng trong đối tượng phục vụ, mục đích phục vụ hay điểm đến như các di sản văn hóa giới, các di tích lịch sử - văn hóa cho đến các lễ hội truyền thống, các phong tục tập quán lâu đời, các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian đậm đà bản sắc dân tộc.
- Tính đa thành phần: không có một giới hạn nào cho những đối tượng liên quan đến du lịch văn hóa như du khách, các tổ chức Nhà nước và tư nhân, nhà đầu tư trong nước/nước ngoài, người làm du lịch (nhân viên, hướng dẫn viên du lịch…), cộng đồng địa phương… Tất cả các tập đối tượng đó gồm nhiều thành phần khác nhau trong xã hội, phong phú về cơ cấu độ tuổi/nghề nghiệp/giới tính/thành phần dân tộc…họ đều tham gia trực tiếp hay gián tiếp vào các hoạt động du lịch văn hóa.
- Tính đa mục tiêu: Du lịch văn hóa mang lại lợi ích nhiều mặt như bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên, môi trường, di tích lịch sử - văn hóa, duy trì và phát triển văn hóa phi vật thể, nâng cao chất lượng phục vụ du khách, nâng cao chất lượng đời sống của người phục vụ du lịch, mở rộng học hỏi và giao lưu văn hóa, kinh tế, nâng cao ý thức trách nhiệm cho cộng đồng.
- Tính liên vùng: Du lịch văn hóa nâng cao ý thức của du khách về văn hóa, thẩm mỹ… vì vậy nên có sự liên kết giữa các cơ sở du lịch, các vùng văn hóa với nhau trong việc hoạch định các tuyến, điểm du lịch văn hóa phục vụ cho du khách.
- Tính mùa vụ: đặc trưng này được thể hiện trong du lịch văn hóa ở hiện tượng du khách thường tập trung rất đông ở những tuyến, điểm du lịch văn hóa vào những ngày nghỉ cuối tuần, nghỉ hè, nghỉ đông, nghỉ lễ và đặc biệt là dịp lễ hội.
- Tính tiềm năng: Du lịch văn hóa là loại hình du lịch tiềm năng bởi vì nó ít chịu sự chi phối của yếu tố thời vụ du lịch vì nó dựa vào các tài nguyên du lịch nhân văn và văn hóa của cộng đồng dân cư tại điểm đến, nhưng nó lại phụ thuộc vào đặc điểm nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, tôn giáo của du khách..
1.2.1.3. Vai trò
Văn hóa chính là nền tảng, là động lực thúc đẩy phát triển du lịch và du lịch văn hóa phải tạo ra môi trường văn hóa vừa tiên tiến vừa đậm đặc đà bản sắc văn hóa dân tộc, làm sống lại các giá trị văn hóa truyền thống, giữ vững sự ổn định chính trị và an ninh xã hội. Du lịch văn hóa phát triển đã tích cóp và gạn lọc muôn ngàn tinh hoa từ muôn nẻo, không ngừng truyền tải, giao lưu, biến đổi và nâng cao để góp phần vào sự giàu có và cường thịnh về nền văn hóa, kinh tế xã hội của dân tộc, của đất nước.
Vai trò và ý nghĩa của du lịch văn hóa đối với kinh doanh du lịch là hết sức quan trọng, góp phần thúc đẩy du lịch vươn lên, tạo đà cho du lịch ngày càng phát triển đem lại hiệu quả to lớn và ổn định cho nền kinh tế. Nhận biết được vấn đề đó, các nhà kinh doanh du lịch/các nhà quản lý kinh tế không những phải kiểm tra ngăn chặn những mặt phi văn hóa bằng hệ thống pháp luật mà vấn đề lâu dài và quan trọng hơn là tạo ra các sản phẩm du lịch văn hóa hấp dẫn từ bản sắc dân tộc, góp phần bảo tồn thuần phong mỹ tục, nâng cấp các di tích lịch sử văn hóa kiến trúc.
1.2.2. Tài nguyên du lịch văn hóa
Luật Du lịch Việt Nam 2005 chia tài nguyên du lịch thành 2 dạng chính là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn. Trong đó tài nguyên du lịch nhân văn là nhóm tài nguyên du lịch có nguồn gốc nhân tạo – do con người sáng tạo từ bàn tay và khối óc của mình trong quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Như vậy, tài nguyên du lịch nhân văn cũng được hiểu là những tài nguyên du lịch văn hóa. Tuy vậy, không phải sản phẩm văn hóa nào cũng đều là tài nguyên du lịch nhân văn. Chỉ những sản phẩm văn hóa có giá trị phục vụ du lịch mới được coi là tài nguyên du lịch nhân văn. Điều này cũng được khẳng định trong Khoản 1, Điều 13, Chương II, Luật Du lịch Việt Nam (2005): “Tài nguyên du lịch nhân văn gồm truyền thống văn hóa, các yếu tố văn hóa, văn nghệ dân gian, di tích lịch sử, cách mạng, khảo cổ, kiến trúc, các công trình lao động sáng tạo của con người và các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể khác có thể được sử dụng phục vụ mục đích du lịch” [20, tr.7].
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng “Du lịch văn hóa sử dụng văn hóa như là nguồn lực. Có 2 loại tài nguyên thuộc về văn hóa sử dụng trong loại hình du lịch này là tài nguyên du lịch nhân văn và tài nguyên du lịch xã hội. Tài nguyên du lịch nhân văn: là những của cải vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, có khả năng thu hút con người tiến hành hoạt động du lịch văn hóa. Tài nguyên du lịch xã hội: là những nét riêng về phong tục tập quán, quan niệm và phương thức sản cuất, sinh hoạt trong đời sống dân cư của mỗi dân tộc” [2, tr.15].
Dù được nhìn nhận theo quan điểm nào thì bản chất của tài nguyên du lịch văn hóa chính là những giá trị văn hóa tiêu biểu cho mỗi dân tộc, mỗi quốc gia. Thông qua những hoạt động du lịch dựa trên việc khai thác các tài nguyên du lịch nhân văn, khách du lịch có thể hiểu được những đặc trưng cơ bản về văn hóa của dân tộc, địa phương nơi mình đến. Tuy nhiên không phải giá trị văn hóa nào cũng là tài nguyên du lịch văn hóa mà chỉ có các giá trị di sản văn hóa được khai thác đưa vào trong hoạt động du lịch và có tính hấp dẫn du khách thì mới trở thành tài nguyên du lịch nhân văn hóa.
1.2.3. Sản phẩm và điểm đến trong du lịch văn hóa
1.2.3.1. Sản phẩm du lịch văn hóa
Du lịch là một ngành kinh tế vì vậy không thể không nhắc đến hệ thống sản phẩm/dịch vụ du lịch mà trong khuôn khổ của luận văn này là các sản phẩm du lịch văn hóa. Nếu sản phẩm du lịch là “tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của du khách trong chuyến đi du lịch” [20, tr.4] thì sản phẩm du lịch văn hóa chính là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch văn hóa trong chuyến đi của họ. Hay theo tác giả Nguyễn Phạm Hùng (2013) trình bày trong công trình khoa học Nghiên cứu phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bằng sông Hồng thì “sản phẩm du lịch văn hóa là sự kết hợp giữa tài nguyên du lịch văn hóa và các dịch vụ du lịch văn hóa thích hợp phục vụ nhu cầu thưởng thức, khám phá, trải nghiệm của du khách về những điều khác biệt, mới lạ của các nền văn hóa khác nhau” [tr. 19]. Như vậy, giống như các sản phẩm của các loại hình du lịch khác, sản phẩm du lịch văn hóa cũng chứa đựng yếu tố dịch vụ của ngành “công nghiệp không khói” nhưng lại mang đặc trưng riêng biệt gắn liền với văn hóa bản địa – nơi diễn ra hoạt động du lịch văn hóa.
1.2.3.2. Điểm đến trong du lịch văn hóa
Theo Điều 4, Chương I, Luật Du lịch Việt Nam (2005), thì “điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch” [20, tr.2]. Tuy nhiên, trong du lịch văn hóa điểm đến thường bao gồm những di tích lịch sử, những thành phố lớn với các cơ sở văn hóa như bảo tàng, nhà hát hoặc những vùng nông thôn nơi trưng bày hiện vật truyền thống văn hóa của cộng đồng dân cư như các lễ hội, các nghi thức thể hiện lối sống, giá trị và văn hóa của họ. Bên cạnh đó, điểm đến của du lịch văn hóa còn là các thành phố hiện đại, công viên, câu lạc bộ, các hệ sinh thái ven biển, hải đảo và đất liền, các kỳ quan trên thế giới để khám phá nền văn hóa nơi đó.
1.2.4. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa
Hiểu theo nghĩa rộng, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch được xem là toàn bộ cơ sở hạ tầng, phương tiện, vật chất và kỹ thuật tham gia vào hoạt động du lịch. Bao gồm cả cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch như nhà hàng, khách sạn, hệ thống điện nước vệ sinh phục vụ tại điểm du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngành kinh tế khác có liên quan (mạng lưới giao thông, hệ thống thông tin liên lạc, hệ thống điện, nước của vùng…). Hiểu theo nghĩa hẹp thì cở sở vật chất kỹ thuật của du lịch là toàn bộ những cơ sở hạ tầng, vật chất, kỹ thuật được các nhà làm du lịch đầu tư xây dựng để phục vụ cho hoạt động du lịch như nhà hàng, khách sạn, đường giao thông nội bộ trong khu/điểm du lịch, công trình điện nước tại khu/điểm du lịch, các khu vui chơi giải trí, phương tiện giao thông và các công trình bổ trợ khác gắn liền với hoạt động du lịch. Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa là toàn bộ những cơ sở vật chất kỹ thuật tại điểm du lịch văn hóa và cơ sở hạ tầng của ngành nghề khác tham gia vào hoạt động du lịch văn hóa như: hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, các công trình cung cấp điện nước, cơ sở phục vụ ăn uống, cơ sở lưu trú, các cửa hàng, khu giải trí/thể thao, cơ sở y tế, trạm xăng dầu, nhà ga, bến cảng, bãi đỗ xe… phục vụ trực tiếp cho du khách đến tham quan tìm hiểu du lịch văn hóa. Cơ sở vật chất kỹ thuật của du lịch văn hóa góp phần quyết định đến chất lượng dịch vụ và hiệu quả của điểm đến du lịch văn hóa.
1.2.5. Nhân lực du lịch văn hóa
Nguồn nhân lực được hiểu là tất cả người lao động làm việc trong một tổ chức, bao gồm trí lực và thể lực. Như vậy, nguồn nhân lực trong du lịch là toàn bộ đội ngũ nhân viên làm việc có liên quan đến lĩnh vực du lịch. Bao gồm cả nguồn