DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Hìnhthái cá đụcSillago sihama5
Hình 3.1: Bản đồ thu mẫu. 13
Hình 4.1: Hình thái cá đục Sillago sihama (Forsskal, 1775) 19
Hình 4.2: Tương quan chiều dài và khối lượng của cá đục Sillago sihama 21
Hình 4.3: Hình dạng miệng của cá đục Sillago sihama 22
Hình 4.4: Hình dạng lược mang của cá đục Sillago sihama 23
Hình 4.5: Hình dạng ruột của cá đục Sillago sihama 24
Hình 4.6: Hình dạng gan cá đục Sillago sihama 25
Hình 4.7: Tương quan chiều dài tổng và RLG của cá đục Sillago sihama 25
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cá đục Sillago sihama Forsskal, 1775 ở huyện Trần Đề - Sóc Trăng - 1
- Vị Trí Địa Lý Và Điều Kiện Tự Nhiên Của Tỉnh Sóc Trăng
- Các Chỉ Tiêu Hình Thái Cá Đục Sillago Sihama (N=551)
- Tương Quan Chiều Dài Tổng Và Rlg Của Cá Đục Sillago Sihama
Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.
Hình 4.8: Tần số xuất hiện các loại thức ăn của cá đục Sillago sihama 27
Hình 4.9: Phổ thức ăn của cá đục Sillago sihama ở huyện Trần Đề - Sóc Trăng 29
Hình 4.10: Tinh sào giai đoạn II của cá đục Sillago sihama 29
Hình 4.11: Noãn soàn giai đoạn III của cá đục Sillago sihama 30
Hình 4.12: Giai đoạn thành thục sinh dục cá cái của cá đục Sillago sihama qua các tháng 31
Hình 4.13: Thể hiện giai đoạn thành thục sinh dục cá đực của cá đục Sillago sihama
Qua các tháng 32
Hình 4.14: Biến động độ béo của cá theo thời gian 34
Hình 4.15: Sự biến động hệ số thành thục của cá đục Sillago sihama theo sự phát triển của tuyến sinh dục 35
Hình 4.16: Sự biến động hệ số thành thục của cá đục Sillago sihama theo thời gian
................................................................................................................................... 36
Hình 4.17: Tương quan khối lượng và sức sinh sản tuyệt đối của cá đục Sillago sihama 37
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
ĐBSCL: Đồng Bằng Sông Cửu Long
Hcđ: Chiều cao đuôi
LC: Chiều dài chuẩn
Lcuốn đuôi: Chiều dài cuốn đuôi
Lđầu: Chiều dài đầu
Lmòm: Chiều dài mòm
LTC: Chiều dài tổng cộng
O: Đường kính mắt
OO: Khoảng cách 2 mắt
PP: Phương pháp
SSS: Sức sinh sản
TSXH: Tần số xuất hiện
W: Khối lượng có nội quan
WO: Khối lượng không nội quan
1.1 Giới thiệu
CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) nằm ở hạ lưu sông Mê Kôngcó tổng diện tích khoảng 39.734 km2. Với mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, đã tạo nên một lượng thức ăn tự nhiên và tôm cá. Theo Ủy hội sông Mekong (MRC), lưu vực này có đến 1.700 loài cá đã được xác định (MRC, 2001).Đây chính là một trong những lợi thế quan trọng giúp nghề nuôi trồng và khai thác thủy hải sản phát triển mạnh mẽ. Vì vậy mà nghề nuôi thủy sản ở ĐBSCL nói riêng và cả nước nói chung là một trong hai ngành quan trọng của nước ta.
Hiện nay thủy sản là thế mạnh thứ hai sau nông nghiệp của tỉnh Sóc Trăng, trong đó kinh tế biển gắn liền với cơ cấu kinh tế mũi nhọn từ nguồn lợi thủy sản nuôi trồng, đánh bắt hải sản, công nghiệp chế biến, thương mại - dịch vụ thủy hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá vùng biển Sóc Trăng là nơi cư trú của nhiều loại thủy hải sản có giá trị kinh tế như cá, tôm, mực.Trần Đề là huyện ven biển của tỉnh Sóc Trăng, nằm ở cuối dòng sông Hậu, có hệ thống rừng phòng hộ ven biển, có hai con sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh đổ ra biển qua cửa Trần Đề và Mỹ Thanh. Đây cũng là cửa ngò quan trọng thông ra Biển Đông với thế mạnh là khai thác, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản xuất khẩu.
Hiện nay nhiều đối tượng thủy sản đang được nuôi phổ biến như: cá tra, cá lóc, tôm sú, tôm thẻ chân trắng. Tuy nhiên, vẫn còn một số loài có giá trị kinh tế cao như cá đục, cá bống tượng, cá bống cát, cá chình chưa được quan tâm đúng mức, nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên bị con người khai thác quá mức, sự cạnh tranh gây gắt của thị trường thế giới làm cho đầu ra của sản phẩm cá tra, cá basa, tôm thẻ chân trắng bấp bênh gây khó khăn cho ngành thủy sản. Do vậy việc phát triển đối tượng nuôi mới có triển vọng kinh tế, trong đó có cá đục là việc làm cần thiết. Mặc dù là loài có giá trị kinh tế cao nhưng nghiên cứu về loài cá này ở nước ta chưa nhiều và nghiên cứu chưa sâu. Từ nhận định đó, việc nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của loài cá này, đặc biệt là nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, dinh dưỡng và đặc điểm sinh sản sẽ góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho hoạt động quy hoạch, khai thác bảo vệ nguồn lợi. Đồng thời làm cơ sở cho việc ương nuôi đối tượng này trong tương lai. Với ý nghĩa đó đề tài “Nghiên cứu một số đặc điểm sinh học của cá đục Sillago sihama (Forsskal, 1775) ở huyện Trần Đề - Sóc Trăng” được thực hiện.
1.2Mục tiêu
Đề tài được thực hiện nhằm bổ sung những thông tin về đặc điểm sinh học của cá đục Sillago sihama (Forsskal, 1775) góp phần hoàn thiện những dẫn liệu về sinh học của cá đục và cung cấp cơ sở cho những nghiên cứu tiếp theo về sản xuất giống và ương nuôi đối tượng này.
1.3Nội dung nghiên cứu
Mô tả một số đặc điểm về hình thái của cá đục Sillago sihama ở huyện Trần Đề - Sóc Trăng.
Xác định mối tương quan chiều dài và khối lượng của cá đục Silago sihama.
Xác định một số đặc điểm dinh dưỡng của cá đục Sillago sihama.
Xác định một số đặc điểm thành thục sinh dục của cá đục Sillago sihama.
CHƯƠNG 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 Phân loại và đặc điểm hình thái của cá đục Sillago sihama
2.1.1 Vị trí phân loại
Theo nghiên cứu của Dương Vĩ Khang (1958), hệ thống phân loại của cá đục được xác định như sau:
Tên khoa học: Sillago sihama (Forsskal, 1775) Tên Việt Nam: Cá Đục biển
Tên địa phương: Cá Đục, cá Đục bạc, cá Đục trắng Tên tiếng Anh: White sillago
Ngành: Chordata
Lớp: Osteichthyes
Bộ: Perciformes
Họ: Sillaginidae
Giống: Silago sihama
Loài: Sillago sihama(Forsskal, 1775).
Hình 2.1: Hìnhthái cá đục Sillago sihama(Forsskal, 1775)
(Nguồn: Vò Văn Thiệp, 2011)
Họ cá đục Sillaginidae có 3 giống 31 loài trong đó giống Sillago 29 loài chiếm tỉ lệ cao nhất, giống Sillaginodes có 1 loài làS.virens (Cuvier, 1829), giống Sillaginopsis có 1 loàilà S.panijus (Hamiton,1822).
Ở Trung Quốc, Vương Dĩ Khang (1958) xác định có 3 loài cá đục thuộc giống Sillago:
Cá đục biển (Sillago sihama):phân bố rộng số lượng rất nhiều có giá trị kinh tế. Vẩy giữa đường bên và bộ phận gai vi lưng là 5- 6 hàng.
Cá đục (Sillago japonica) vây ở giữa đường bên và bộ phận gai vi lưng chỉ có 3 hàng.
Cá đục chấm (Sillago maculata):mình có đám sọc hoặc chấm sọc.
Theo Nguyễn Hữu Phụng và ctv (1995), ở Việt Nam ghi nhận được 4 loài cá đục là
Sillago sihama, Sillago boutani, Sillago japonica, Sillago maculate.
2.1.2Hình thái cá đục Sillago sihama
Sillago sihama có thân dàidẹp bên. Đầu tương đối dài, hơi lòm xuống,mòm nhọn. Xương nắp mang sau có một gai cứng nhỏ, nhọn. Miệng nhỏ, thẳng. Răng nhung mọc thành đám ở trên cả 2 hàm và xương khẩu cái. Xương lá mía không có răng. Mắt lớn, đường kính mắt lớn hơn 2,0 lần chiều dài mòm. Lược mang có 7- 9 chiếc. Thân phủ vẩy nhỏ. Đường bên hoàn toàn, vảy đường bên hơi nhô lên, có 69-73 vảy. Má có 2 - 3 (thường là 2 hàng) hàng vảy. Vây cứng và 20 -23 tia mềm. Vây hậu môn đồng dạng với vây lưng thứ hai, có 2 tia gai cứng và 22 -24 tia mềm. Vây đuôi chia thành hai thùy. Lưng màu nâu sang, sờn và bụngmàu trắng bạc. (Theo Bách khoa thủy sản, 2007).
Theo Nguyễn Phong Hải và Cabori (2007), cá đục Sillago sihama thân dài hơi dẹp có hai vây lưng: D1: X1; D2; I (20 - 30); vây hậu môn A; II (21 - 23); đường bên; 66 - 72 vẩy; có 34 đốt sống.
Bong bóng có 2 phần phụ phía trước, rẽ ra và kết thúc trên mỗi bên của xương chẩm trên mang thính giác, hai đường bên phụ khởi đầu ở phía trước, mỗi cái xương chẩm có một ống nhỏ mở ở 2 bên phía trên và kéo dài dọc theo thành bụng bên dưới thành bụng bao quanh cho đến sau cái u có hình ống, 2 phần bụng nhỏ dần phía sau của bong bóng hơi hướng vào phần đuôi, 2 bên phần bụng này có một phần dài và một phần ngắn. Những phần phụ hai bên thường có dạng xoắn và có ống nhỏ mọc lên dọcnhững đường bên này.
Thân cá đục có màu nâu nhạt, vàng nhạt hoặc nâu cát, phía dưới nâu nhạt đến trắng bạc, thường có một dãy dọc giữa đường bên, vẩy lưng sẫm ở cuối, các vây khác trong suốt, vây hậu môn rìa thường trắng đục.
2.2 Phân bố
Trên thế giới, ở phía Bắc là nơi phân bố rộng rãi nhất của cá đục: phân bố ở Ấn độ - Tây Thái Bình Dương, phía Đông thì dọc theobờ biển phía Tây của châu Phi vào biển Đỏ và Vịnh Ba Tư. Cá đục phân bố khắp quần đảo Indonesia, Philippines và kéo dài đến tận phía Nam miền Bắc Australia. Hiện diện ở Trung Quốc, Nhật Bản.
ỞViệt Nam, cá đục cũng phân bố hầu như dọc theo bờ biển, tập trung nhiều ở vùng biển miền trung,nhất là ở Bình Thuận (Lê Minh Thư,2011).
Cá đục thường sống thành bầy, thích vùng nước sạch, gần bờ có cát, có thể chôn mình trong cát khi gặp kẻ thù.Một số loài sống ở rạn san hô. Nhưng đa số thường phát hiện ở vùng nước nông ven biển và cửa sông, thường xuyên vào nước ngọt. Cá đục sống ở độ sâu từ 0 - 60m, thường 0 – 20m. Nhiệt độ thích hợp 260C - 290C. (Lê Minh Thư, 2011).
2.3 Đặc điểm sinh học cá đục
2.3.1 Đặc điểm sinh trưởng
Mối tương quan giữa chiều dài và trọng lượng:
Theo Nikolski (1963) được trích dẫn bởi Nguyễn Thị Hồng Vân (2011), sinh trưởng của cá là quá trình gia tăng về kích thước và khối lượng cơ thể. Tốc độ sinh trưởng của cá phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện sống, đặc tính di truyền của loài. Quá trình này đặc trưng cho mỗi loài cá, thể hiện qua tương quan chiều dài và khối lượng của cá.
Một nghiên cứu về cá đục Sillago sihamađược thực hiện tại New Caledonia phía Tây nước Úc đã thiết lập được phương trình tương quan chiều dài - trọng lượng của 273 mẫu cá đục có chiều dài từ 3,5 – 2,9cm là W = 0,0056L3.130 với hệ số tương quan rất chặt chẽ R2 = 0,984. Một kết quả khác được nghiên cứu trên cá đục tại Thổ Nhĩ Kỳ với số mẫu là 23, cá có chiều dài từ 8,7 – 20,5 cm, phương trình tương quan W = 0,0053L3.064 với R2 = 0,962, phương trình tương quan của 15 mẫu cá đục ở Nam Phi là W = 0.0115L3.029 với hệ số R2 = 0,995, cá đạt chiều dài dao động từ 3,0
– 13,1cm. (Fishbase,2014).
Cá đục tăng trưởng khá nhanh chóng, đạt được chiều dài từ 13 đến 14 cm vào khoảng 1 năm, 16 đến 20 cm sau 2 năm, 20 đến 24 cm sau 3 năm và 24 đến 28 cm sau 4 năm. (Lê Minh Thư, 2011).
Cá đục có kích thước tối đa khoảng 31 cm, nhưng thường thấy nhiều cá đục ở kích thước 10- 15 cm. Tuổi thọ cá có thể đến 7 năm. (Lê Minh Thư, 2011).
2.3.2 Đặc điểm dinh dưỡng
Tính ăn của cá thay đổi theo giai đoạn phát triển của cơ thể. Điểm chung nhất của các loài cá là khi mới nở từ trứng đều dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Đây là quá trình dinh dưỡng bên trong. Hết noãn hoàng cá chuyển sang tìm kiếm thức ăn trong môi trường nước. Thức ăn thích hợp cho giai đoạn này (ấu trùng) là động vật phù du có kích thước phù hợp với khả năng bắt mồi của cá. Sau giai đoạn này, cá chuyển sang ăn thức ăn của loài (Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009).
Theo Mai Đình Yên và ctv (1979) cho rằng cá ăn thịt thường có miệng lớn, cá ăn thực vật thường có miệng nhỏ, còn theo tác giả Nguyễn Bạch Loan (2003), cá ăn động vật kích thước lớn có răng to, bén và răng chó.
Theo Smith (1991), thực quản của hầu hết loài cá thường ngắn tuy nhiên các loài cá có tính ăn khác nhau thì độ đàn hồi của thực quản cũng khác nhau. Dạ dày thường có quan hệ với thức ăn và kích thước con mồi. Nhưng những loài có dạ dày lớn có thể ăn được những con mồi có kích thước lớn và ngược lại. Chiều dài ruột của cá phụ thuộc vào tuổi và loại thức ăn tự nhiên mà chúng tiêu thụ, chiều dài ruột gia tăng theo sự gia tăng tỉ lệ các loại thức ăn thực vật trong khẩu phần ăn của cá. (Nguyễn Minh Kha, 2011).
Theo Nikolsky (1963) trích dẫn bởi Phạm Thanh Liêm và Trần Đắc Định (2004), căn cứ trên tầm quan trọng của loại thức ăn đó trong khẩu phần ăn của cá phân chia thức ăncá ra thành 4 loại.
Thức ăn cơ bản: Là loại thức ăn được cá thường xuyên sử dụng và chiếm tỉ trọng lớn nhất trong khối lượng thức ăn mà cá ăn vào.
Thức ăn thứ cấp: là loại thức ăn thường phát hiện trọng ống tiêu hóacá, nhưng với số lượng ít.
Thức ăn ngẫu nhiên: thức ăn chiếm số lượng rất ít trong ống tiêu hóa. Thức ăn bắt buộc là loại thức ăn được cá sử dụng khi thiếu thức ăn cơ bản.
Cá đục là loại cá ăn thiên về động vật. Phổ thức ăn khá rộng có thể ăn được các loài giáp xác, giun nhiều tơ, cá, tôm có kích thước nhỏ. Có sự khác biệt về thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của cá đục ở các giai đoạn khác nhau nếu cá nhỏ thức ăn chủ yếu là giáp xác, copepoda thì cá lớn lại là giun nhiều tơ và các loại cá, tôm nhỏ(Lê Minh Thư, 2011).