bản thân được hưởng một cuộc sống ở trần gian được an toàn và hạnh phúc hơn, vượt qua những điều mà người trần không vượt qua nổi.
Người Dao tin rằng có một thế giới bên kia, là thế giới dành cho người chết. Con người khi qua đời sẽ về cõi này, chờ xét xử, tội ác của bản thân ở trần gian sẽ bị phán xử khi con người bước qua thế giới bên kia, nếu làm điều tốt thì được lên cõi Trời, lên Niết Bàn, nếu làm chuyện ác khi còn sống sẽ xuống cõi địa ngục.
Quan niệm v thế giới và hệ thống thần linh
Qua sưu tầm và nghiên cứu cho thấy các vị thần thánh của người Dao có Ngọc Hoàng (Nhụt Hùng) ở thiên đình là vị thần đứng đầu, có nhiệm vụ cai quản tất cả các thần thánh, ma quỷ, các loại sinh vật khác kể cả con người. Họ cho rằng mọi vật sống trước khi sinh ra phải qua ông Ngọc Hoàng và Ngọc Hoàng quyết định thời gian sống. Bên cạnh Ngọc Hoàng có Phật, và dưới Phật có có các thánh như thủy nguyên, linh bảo, đạo đức, còn dưới các vị này có tam thanh, tam bảo, tam nguyên. Dưới nữa là các vị thần thánh lớn nhỏ thường được thờ cúng trong nhà như tổ tiên, Bàn Vương, ma bếp, thần trông coi gia súc,... và các vị thần thánh được thờ cúng ngoài nhà như thổ công, ma sông, ma suối,...
Theo quan niệm của đồng bào Dao, trên thế giới có ba tầng: Tầng ở trên trời là nơi sống của các vị thần, tầng ở giữa là của người sống và dưới là nơi của những người lùn. Các tầng này có quan hệ nhất định với nhau và về cơ bản có cuộc sống gần giống nhau. Tầng trên có Ngọc Hoàng là vị thần có nhiệm vụ cai quản cả ba tầng người. Tầng dưới có Diêm Vương có nhiệm vụ cai quản những người chết. Ở tầng thế giới con người có các thần thổ địa, thần lúa gạo, thần núi, thần sông...
Ngoài các vị thần đó còn có ma quỷ. Hồn con người khác với ma quỷ ở chỗ hồn là một phần cơ thể sống nên gần gũi với con người, còn ma quỷ là hồn của sự sống đã chết thường gây nhiều điều ác cho mọi người. Đồng bào cho rằng khi ông bà, cha mẹ chết, linh hồn sang bên kia thế giới (diềm kên) quê hương chính là Dương Châu - Trung Quốc. Mặc dù vậy, linh hồn ấy tức tổ tiên vẫn có mối liên hệ với con cháu tức là những người sống ở trần gian (giàng kên). Tổ tiên về thăm con
cháu thường vào mùng một, ngày rằm hay các dịp lễ tết. Vì vậy con cháu phải có trách nhiệm thờ cúng tổ tiên và cung cấp những thứ được coi là cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của người đã khuất.
Người Dao tin rằng, thế giới bên kia của người chết cũng là một nơi rất đông vui, có người cai quản những người chết là Diêm Vương. Cuộc sống của con người nơi trần gian như thế nào thì sang thế giới bên kia cũng vậy. Người chết vẫn phải làm ăn, sinh sống như khi chưa chết, họ cũng cho rằng người chết khi có tội thì linh hồn sẽ bị đày đọa ở âm phủ chẳng sung sướng gì, nếu ma nào làm trái lệnh thì bị xử phạt khiến cho linh hồn đau đớn khổ sở. Thế giới của người chết rất xa thế giới hiện tại, phải qua nhiều chặng có quân lính canh gác nên phải có người dẫn đi vào bảo ban cách ăn ở. Cho nên người nhà chuẩn bị đầy đủ mọi thứ cho người chết mang theo sang thế giới của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên cứu, khai thác giá trị văn hóa của người Dao ở tỉnh Phú Thọ phục vụ phát triển du lịch cộng đồng - 6
- Giá Trị Văn Hóa Trong Ời Sống Vật Ch T
- Giá Trị Văn Hóa Trong Ời Sống Tinh Thần
- Nghiên cứu, khai thác giá trị văn hóa của người Dao ở tỉnh Phú Thọ phục vụ phát triển du lịch cộng đồng - 10
- Giải Pháp Gắn Với Đào T O, Nghiên Cứu Khoa Học
- Giải Pháp Gắn Với Xúc Tiến, Kết N I Du Lịch
Xem toàn bộ 124 trang tài liệu này.
Quan niệm v hồn
Xuất phát từ quan niệm, tất cả mọi vật đều có linh hồn. Người Dao cho rằng trong mỗi con người đều có hồn (vần), con người ngoài linh hồn còn có thể xác. Hồn là phần nhẹ hơn, vô hình không nhìn thấy, có dạng như cái bóng của vật sống nó tồn tại bên trong thể xác. Người Dao cũng giải thích rằng đứa trẻ sinh ra chỉ khi nào cất tiếng khóc chào đời mới có hồn. Trong cơ thể con người, linh hồn là trung tâm và là yếu tố quyết định sự sống cũng như mọi hoạt động của con người.
Đồng bào cho rằng trong mỗi người có ba hồn: Hồn thứ nhất - hồn chính nằm ở đỉnh đầu chỗ xoáy tóc, hồn thứ hai nằm ở cánh tay, hồn thứ ba nằm ở hai chân. Nam và nữ có có số hồn bằng nhau. Khi tất cả các hồn đều có mặt đầy đủ trong thân thể người ta thì con người được khỏe mạnh. Nếu chỗ nào trong thân thể người ta bị đau thì có nghĩa là hồn ở nơi ấy đã tạm thời rời bỏ thân thể một thời gian. Do hồn là phần nhẹ nên nếu người gặp các trường hợp hoảng sợ, bị cơn sốc mạnh, làm việc quá sức... hồn sẽ bay ra khỏi thực thể làm cho con người bị ốm đau. Trong trường hợp như vậy người ta tổ chức cúng để gọi hồn về, nếu cúng mãi mà
hồn vẫn không quay trở về thì cái chết có thể sẽ sảy ra đối với người bệnh. Nghi lễ cúng gọi hồn được người Dao gọi là cúng giải hạn (chá chiều).
Đồng bào quan niệm con người khi chết hồn biến thành ma (miến), hình dáng nó chẳng khác gì người chết. Nhưng chỉ có ma người lớn mới có khả năng tác động vào người và vật ở trần gian. Còn ma trẻ con chỉ có thể làm cho người khác sợ như tự nhiên nghe tiếng khóc, tiếng cười,... Người Dao cho rằng khi ngủ say thì hồn lìa khỏi thân thể để đi chơi sang thế giới khác làm cho người ngủ nằm mơ (bấy puột) thấy điều này điều kia. Nếu hồn lang thang đi mãi quên đường về thì người ta cứ chìm sâu trong giấc mơ. Do đó mới sinh ra việc giải mã giấc mơ nhưng phải đoán ngược lại vì thế giới của ma và thế giới của chúng ta luôn trái ngược nhau. Ví du: mơ thấy đám ma cho bố mẹ là điềm tốt, tức là bố mẹ sẽ khỏe và sống lâu, mơ thấy mình vui cười ắt sẽ phải gặp chuyện buồn phiền, mơ thấy khóc tức là sắp có điềm vui,...
Khi chết đi, linh hồn mặc dù sang thế giới bên kia nhưng vẫn thường xuyên theo dõi con cháu để phù hộ. Linh hồn rất thiêng, đặc biệt những người chết trẻ phải được thờ cúng chu đáo. Nếu làm điều gì phật ý linh hồn sẽ về quấy nhiễu, con cháu ốm đau, không làm ăn được. Khi đó phải làm lễ cúng tạ lỗi với người đã mất. Khi người chết chưa được làm ma, thì người đó vẫn chưa biết mình đã chết, hồn người chết vẫn cứ rong ruổi đi chơi. Do vậy người nhà làm ma là để báo cho người đó biết là đã chết và dẫn đường cho họ về với tổ tiên ở thế giới bên kia.
Cúng tổ tiên
Ma tổ tiên trong tiếng Dao gọi là “chà phìn miến”, đây là ma của những người thân trong gia đình đã qua đời. Tổ tiên có nhiều đời, thông thường người ta chỉ cúng từ đời thứ 9 trở xuống vì họ cho rằng qua đời thứ 9 là đã ra ma và phải hóa đi, nhưng trong cúng bái hàng ngày thường cúng đến đời thứ 3. Bàn thờ tổ tiên tiếng Dao gọi là miền tìa, người ta thường đặt bàn thờ ở góc trái kể từ cửa chính chỗ vách ngăn với gian bên và buồng trong.
Người Dao cúng tổ tiên tông tộc, ma tổ tiên tông tộc được cúng từ đời tách tông tộc ra khỏi tông tộc lớn cho đến đời thứ ba ma tổ tiên của các gia đình thành viên. Bàn thờ ma tông tộc gọi là “hùng lầu” được đặt tại nhà trưởng tộc và nơi đó có đầy đủ các dụng cụ cúng bái như các tranh thờ cúng, trống, chiêng, chuông nhạc, sách cúng... Việc cúng bái ma tông tộc được ông trưởng tộc đảm nhiệm và chỉ cúng chung với ma tổ tiên gia đình trưởng tộc vào các dịp lễ, tết.
Người Dao cho rằng ông bà hay cha mẹ chết đi thì ma được đưa về quê cha đất tổ ở Trung Quốc. Trong gia đình có công việc gì như cưới xin, làm nhà, ốm đau,... đều cúng khấn đến tổ tiên, báo cáo cho tổ tiên biết để phù hộ con cháu, ngoài những lúc có việc ra họ thường cúng vào dịp từ 25 tết đến 15 tháng giêng, mời tổ tiên về cùng con cháu ăn tết với nội dung: một năm cũ đã qua nhờ có tổ tiên phù hộ, giúp đỡ gia đình con cháu làm ăn thuận lợi, chăn nuôi phát triển nay gia đình có lễ vật cúng tạ ơn tổ tiên và bước sang năm mới tổ tiên phù hộ mọi người trong gia tộc, dòng họ được khỏe mạnh, mưa thuận gió hòa, cho mùa màng bội thu, gia súc gia cầm phát triển không dịch bệnh. Lễ vật cúng tổ tiên gồm: 1 con lợn 40 - 50kg, 1 con gà, bánh chưng, bánh giầy và tiền âm. Người đứng ra cúng tổ tiên thường là chủ nhà, nếu chủ nhà không biết cúng thì nhờ người hàng xóm đến cúng giúp, phụ nữ không bao giờ được phép cúng tổ tiên.
Dịp thanh minh người Dao thường cúng tổ tiên kết hợp với việc sửa sang mồ mả của ông cha. Họ thường dùng xôi nếp nhuộm nhiều màu và thịt gà để cúng. Ở những nơi gần mồ mả và thuận tiện đi lại thì gia đình đến tận mộ để sửa sang và cắm giấy bản đã được cắt thành từng chùm, nếu không đến được thì cúng ở nhà, còn “phàn chấy” được đốt đi, để ông bà để ông bà tự mang về cắm vào nhà của mình.
Cú Bà Vươ
Ngoài khái niệm về tổ tiên là ma ông bà và ma tông tộc, người Dao còn khái niệm về tổ tiên gốc, tức là ông tổ. Thông thường cả hai tổ tiên này người ta gọi là “tồm miến”, tức là ma to hay ma gốc.
Đồng bào thường không lập bàn thờ riêng để cúng những ma này và thường cầu khấn hoặc cúng chung với tổ tiên gia đình trong lễ cấp sắc, đám chay,... Tuy nhiên cũng có thể tổ chức cúng riêng cho những ma này. Trong truyện Bàn Hộ có nói rằng con cháu Dao Vương phải cúng âm hồn của Bàn Vương cứ hai năm cúng nhỏ, năm năm cúng to. Lễ cúng các tổ tiên gốc được người Dao gọi là “síp tồm miến”. Hiện nay người ta cúng tông tộc chỉ khi nào con lợn nái của gia đình thành viên tông tộc tự nhiên đẻ hai con lợn đực thì mới nuôi hai con lợn con đó trong để làm lễ cúng Bàn Vương và các tổ tiên xa.
Khi hai con lợn đực nuôi lớn khoảng 20kg người ta mới làm lễ cúng thông báo cho Bàn Vương cùng các đời tổ tiên biết, nếu thấy một trong hai con lợn chết thì không phải làm lễ này nữa. Lễ cúng thông báo cho Bàn Vương về hai con lợn thần được tiến hành tại nhà trưởng tộc. Lễ vật cúng gồm có 1 con gà luộc, hương, tiềm âm, rượu,... Thầy cúng khấn thông báo cho Bàn Vương và các đời tổ tiên rằng hiện nay đã có hai con lợn thần, nếu các vị tổ tiên phù hộ cho cả dòng tộc được khỏe mạnh, làm ăn khấm khá thì sẽ tổ chức lễ cúng trả ơn. Sau lễ cúng hai con lợn được đưa về nhà trưởng tộc nuôi lớn khoảng 50kg làm lễ “síp tồm miến”. Lễ này được tiến hành vào tháng 12 âm lịch, nếu tháng này không có ngày tốt thì chuyển sang tháng 11 hoặc tháng 1.
Nói đến tin ngưỡng của người Dao phải kể tới bộ tranh thờ của người Dao. Tranh thờ có thể nói là một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Dao, đó là một phần quan trọng gắn kết giữa nhiều thế hệ của người Dao.
Từ xa xưa cho đến nay, tục treo tranh thờ vào dịp Tết nguyên đán của người Dao Phú Thọ vẫn được duy trì và trở thành nét văn hóa đặc sắc trong phong tục của đồng bào.
Những ngày cận Tết, cùng với việc chuẩn bị lương thực, thực phẩm và các vật dụng thiết yếu cho Tết Nguyên đán thì một nghi thức không thể thiếu của người Dao Quần chẹt là phải treo tranh trên bàn thờ.
Tranh thờ Tết tồn tại trong nghi lễ người Dao có từ rất lâu đời, tranh thờ vẽ xong phải làm lễ khai quang, rồi cất đi bao giờ có việc mới đem ra treo, cho nên hiện nay trong gia đình người Dao Quần chẹt còn giữ những bộ tranh hàng trăm năm.
Mâm lễ cúng treo tranh mới hay còn gọi là lễ khai quang của người Dao gồm: một chén nước lã, một bát hương, 5 chén rượu trắng và 2 con lợn đã mổ và làm sạch. Đến 1h sáng, thầy mo bắt đầu làm lễ cúng báo cáo với các thần linh, tổ tiên, thần rừng, thần núi..., cầu mong phù hộ cho con cháu một năm mới có sức khoẻ, có cơm no áo ấm, thóc lúa đầy nhà, lợn gà đầy chuồng…
Tất cả thủ tục, từ mổ lợn đến cúng và treo tranh đều được diễn ra trong đêm, khi trời sáng thì mọi việc phải hoàn tất. Đến lúc mặt trời lên, gia đình hạ cỗ và nấu nướng cho bữa tiệc mừng tranh mới. Lúc này bạn bè và bà con lối xóm mới đến chúc mừng và chúc phúc cho gia chủ.
Mỗi gia đình người Dao có ít nhất một bộ tranh thờ. Trong quan niệm của người Dao chỉ thờ tranh vẽ, không thờ tranh in và phải là người có uy tín, được thầy truyền dạy thì bộ tranh mới có giá trị về mặt tâm linh. Trong mỗi gia đình phải có ít nhất trong số bộ tranh này là: Sò Phản, Hành xư, Tam Thanh Đại đường. Trong đó bộ Tam Thanh Đại đường là quan trọng hơn cả, góp phần thực hiện trong nghi lễ Cấp Sắc, Tết nhảy, đám ma tươi, ma khô… Tranh được vẽ theo kiểu tranh dân gian với nét vẽ tả thực, các vị thần có vẻ mặt khác nhau nhưng đều có nét oai nghiêm, quyền lực.
Mỗi dịp lễ, tết khác nhau, người Dao lại có những loại tranh riêng. Trong đó phổ biến là bộ tranh Tam Tượng và bộ Đại Đường Quân. Hai bộ tranh này dòng họ nào cũng phải có, bởi vì không có thì không thể tiến hành các lễ cúng.
Đồng bào Dao quan niệm tranh chính là cái hồn làm nên phong tục, tập quán của mình. Nếu thiếu đi những bức tranh thờ cúng là đồng bào Dao không thể thực hiện được những nghi thức trong lễ, tết như Cấp Sắc, Tết Nhảy, tạ mả, đám ma tươi, đám ma khô,….
Tục thờ bằng tranh được người Dao Quần bảo tồn từ bao đời nay, tạo nên nét văn hóa riêng biệt, đặc sắc. Tuy nhiên, người còn giữ nghề vẽ tranh thờ hiện nay lại rất hiếm, kể cả trong những cộng đồng người Dao sinh sống đông đúc.
Theo ông Triệu Tài Lớ 83 tuổi (đội 2, xã Lương Sơn, huyện Yên Lập) thì tranh thờ thể hiện quan niệm của người Dao về vũ trụ, triết lý và mối quan hệ giữa cuộc sống với con người và vạn vật. Trong đó bảo trợ cuộc sống của con người là 3 vị thần (còn gọi là Tam thanh) gồm: nguyên thủy thiên tôn - Ngọc thanh (thần cai quản trên trời); Linh bảo thiên tôn - Thượng thanh (thần cai quản trần gian); đạo đức thiên tôn - thái thanh (thần cai quản âm phủ). Trong 3 vị này, Ngọc thanh có vị trí cao hơn cả, 3 vị này có khi được vẽ độc lập ở từng bức tranh, nhưng cũng có khi được vẽ chung hoặc vẽ cùng các vị thần linh khác. Tam thanh luôn giữ vị trí trung tâm trong các bộ tranh người Dao.
Chất liệu sử dụng vẽ tranh là tấm giấy dó tùy theo kích cỡ bức tranh, sau đó dùng keo da trâu (da trâu khô nấu lên thành keo) làm chất kết dính, đồng thời keo da trâu pha với nước hòa cùng bột màu để vẽ tranh, tranh giữ được màu sắc tươi tắn mà không phai. Màu sắc mỗi bức vẽ tùy thuộc vào chủ đề hay nhân vật mà đưa ra những gam màu có đặc thù tương ứng như bức Tam thanh thì gam màu chủ đạo cũng như trang phục của Ngọc thanh thì chủ đạo là xanh da trời; Thượng thanh thì chủ đạo là màu xanh lá cây; Thái thanh chủ yếu là màu đỏ, đen. Màu chủ đạo trong tranh là xanh, đỏ, tím, vàng, trắng, đen. Trong các bức tranh vẽ thần linh đều có vẻ mặt khác nhau, từng vị thần đều có nét uy vũ riêng biệt trên nền hào quang.
Trong số bộ tranh trong nghi lễ thờ cúng của đồng bào Dao, thì bộ Tam thanh đại đường rất quan trọng, cái hồn cốt trong thực hiện nghi lễ Cấp sắc, Tết nhảy, tạ mả, đám ma…. Trong đó có lễ cấp sắc, nghi lễ quan trọng bắt buộc người đàn ông Dao, chứng minh người đàn ông ấy đã trưởng thành. Vì người Dao quan niệm, trong đời nếu không có lễ cấp sắc, linh hồn sẽ mãi mãi không được khôn lớn và không được đoàn tụ với ông bà tổ tiên. Ngoài ra, người Dao tổ chức Tết Nhảy để tạ ơn trời, đất, long vương, thánh thần, tổ tiên; đồng thời còn là dịp để cầu mùa, cầu bình an, hạnh phúc, để con cháu đoàn viên, tri ân tổ tiên và gửi gắm ước vọng về
cuộc sống đủ đầy, ấm no, hạnh phúc. Chính vì vậy, bộ Tam thanh đại đường được nhiều người đặt vẽ nhất. Bộ tranh Tam thanh đại đường gồm 17 bức, trong đó có 12 bức to, 4 bức nhỏ gọi là Tứ phủ và 1 bức binh lính gồm 120 quân, hoàn thiện bộ tranh phải mất mất 40 ngày. Mỗi bộ tranh Tam thanh đại đường có giá 14-15 triệu đồng; bộ tranh khác có giá từ 4- 5 triệu đồng.
Ngoài phục vụ hoạt động tôn giáo tín ngưỡng và trang trí, tranh thờ của người Dao còn mang tính giáo dục, hàm chứa những nội dung tri thức dân gian rất lớn. Vì thế, tục thờ tranh dân gian liên quan đến đạo giáo được người Dao bảo tồn từ đời này qua đời khác.
2.3.2. Lễ tết, lễ hội
Nói đến lễ tết của người Dao Quần Chẹt ở Phú Thọ trước hết phải kể tới Tết nhảy. Theo tác giả Trần Liên thì: “Tết nhảy có từ rất lâu đời. Người Dao Quần Chẹt cho biết, từ xa xưa khi đi tìm kiếm không gian sinh sống mới, một nhánh người Dao lênh đênh trên biển nhiều ngày tháng và phải đối mặt với một cơn bão lớn. Khi tính mệnh của mọi người trên thuyền đang ở thế ngàn cân theo sợi tóc, không ai bảo ai, tất cả đồng loạt quỳ xuống, xin tổ tiên phù hộ tai qua nạn khỏi. Kỳ lạ thay, sau lời cầu khấn thì trời yên bể lặng, mây quang, mưa tạnh. Để bày tỏ lòng thành kính với tổ tiên cũng như các thế lực siêu nhiên, tất cả những người có mặt trên thuyền đã lập đàn cúng tế, song vì không có nhang đèn, lễ vật (đang lênh đênh trên biển) nên họ chỉ có thể cảm ơn tổ tiên bằng động tác cơ thể (nhảy múa). Khi thuyền cập bờ cũng là lúc các dòng họ người Dao chia nhau đi khai hoang, mỗi người một ngả. Họ hứa với nhau rằng trong cuộc đời mỗi con người sẽ có ít nhất một lần tổ chức ngày lễ báo ơn tổ tiên, trong ngày lễ sẽ tái hiện các điệu nhảy trên thuyền. Tết nhảy ra đời từ đó và đến hôm nay, vẫn chưa hết vai trò, ý nghĩa lịch sử”14.
Về bản chất, Tết nhảy mang ý nghĩa như ngày giỗ tổ chung cho cả cộng đồng song không bị áp đặt về thời gian. Thường thì gia đình nào, dòng họ nào cũng có thể tổ chức Tết nhảy, song ở Thanh Hóa, lễ hội này hoàn toàn vắng bóng trong đời
14. http://thanhtra.com.vn