Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch với các sản phẩm từ rừng tại Vườn quốc gia Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 2

Bảng 3.15. Lượng sử dụng trung bình của du khách đối với từng nhóm đối tượng phỏng vấn (kg/người) 49

Bảng 3.16. Lượng sử dụng sản phẩm động vật từ rừng trung bình người 49

Bảng 3.17. Số khách du lịch được đáp ứng nhu cầu thực phẩm động vật từ rừng (người/ha/năm) 49

Bảng 3.18. Thống kê mục đích của du khách đến với VQG Ba Vì 57

Bảng 3.19. Mức độ hài lòng của khách du lịch về VQG Ba Vì 60


DANH MỤC HÌNH


Hình 1.1. Lượng du khách do VQG Ba Vì quản lý 17

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Hình 1.2. Sơ đồ tổ chức Vườn Quốc Gia Ba Vì 18

Hình 3.1. Hoa chuối hột (dùng làm nộm, nấu canh; chữa táo bón) 31

Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch với các sản phẩm từ rừng tại Vườn quốc gia Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - 2

Hình 3.2. Rau dớn (nấu canh; mát gan, lợi tiểu) 31

Hình 3.3. Rau đắng cảy (nấu canh; chữa bệnh huyết áp) 31

Hình 3.4. Rau tòm bóp (thanh nhiệt, tiêu đờm) 32

Hình 3.5. Măng rừng 32

Hình 3.6. Quả trám 32

Hình 3.7. Cây Xạ đen (Celastrus hindsii) 37

Hình 3.8. Cây Bách Bộ (Stemona tuberosa) 37

Hình 3.9. Cây Bạch Chỉ (Angelica dahurica) 38

Hình 3.10. Cây Bạch Truật (Atractylodes macrocephala) 38

Hình 3.11. Cây cam thảo (Glycyrrhiza uralensis) 39

Hình 3.12. Cây Câu Đằng (Uncaria rynchophylla) 39

Hình 3.13. Một số sản phẩm cung cấp thực phẩm cho du lịch từ động vật tại VQG46 Hình 3.14. Cây bách Xanh tại độ cao 1200m 55

Hình 3.15. Cây Trường Vân ở độ cao 1100m 55

Hình 3.16. Mục đích của khách du lịch đến VQG Ba Vì 58

Hình 3.17. Sơ đồ du lịch tại khu vực VQG Ba Vì 64

Hình 3.18. Sơ đồ du lịch tại khu vực đền thờ Bác Hồ và đỉnh Tản Viên 65


ĐẶT VẤN ĐỀ

Sự phát triển của khoa học công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, hoà bình hợp tác cùng sự phát triển kinh tế đã nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, tạo điều kiện thụân lợi cho du lịch trở thành một hoạt động phổ biến với ý nghĩa là sự giải trí, thư giãn và hơn hết là một phương thuốc công hiệu giúp con người tránh khỏi được những căng thẳng của cuộc sống hiện đại. Dưới tác động của chính sách phát triển kinh tế, hội nhập với thế giới của Đảng và Nhà nước, sự ổn định của chế độ chính trị cùng tiềm năng du lịch phong phú đã tạo ra những điều kiện thuận lợi thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam phát triển. Và trong những năm gần đây ngành du lịch đã có những bước phát triển mạnh mẽ, mang tính chất bùng nổ, nó đã trở thành một trong những ngành quan trọng của nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tại các địa phương có tài nguyên được khai thác phục vụ du lịch, sự phát triển du lịch đem lại nhiều tác động tích cực như tăng thu ngân sách, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương, tạo ra nguồn thu ngoại tệ góp phần tăng trưởng kinh tế… từ đó có điều kiện giải quyết các vấn đề tiêu cực trong xã hội. Hoạt động du lịch còn là chất xúc tác cho việc phát triển nhiều ngành kinh tế như giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, các ngành nghề thủ công truyền thống…cơ sở hạ tầng như giao thông, các công trình công cộng, hệ thống cấp thoát nước, cung cấp điện, xử lý rác thải được nâng cấp, xây dựng cùng với sự phát triển của du lịch.

Huyện Ba Vì - TP. Hà Nội là một nơi giàu tiềm năng du lịch, với hệ thống các giá trị tài nguyên tự nhiên và nhân văn phong phú. Trước hết là sự đa dạng sinh học với Vườn Quốc gia (VQG) Ba Vì, nơi tập trung hàng trăm loài động thực vật quý hiếm; hồ Suối Hai với diện tích lớn cùng một quần thể sinh thái khá đa dạng; với những khu du lịch nghỉ mát nổi tiếng như khu du lịch Ao Vua, khu du lịch Khoang Xanh – Suối Tiên, khu du lịch Đầm Long… Đây còn là khu vực có nền văn hoá lâu đời, với nhiều giá trị tài nguyên du lịch nhân văn


như Đình Tây Đằng, Đình Chu Quyến, khu di tích K9 Đá Chông… Với truyền thuyết Sơn Tinh – Thuỷ Tinh, những nét văn hoá độc đáo của các dân tộc cùng các giá trị tài nguyên đó đã tạo ra sức hấp dẫn riêng của Ba Vì đối với du khách. Như vậy, có thể thấy rằng Ba Vì là nơi có tiềm năng to lớn để phát triển du lịch, và hoàn toàn có thể đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đem lại hiệu quả kinh tế cao cho vùng nói riêng và cho đất nước nói chung. Nhưng thực tế chưa được như vậy.

Trong thời gian qua, hoạt động du lịch tại Ba Vì tuy cũng đã có những bước phát triển nhất định, song việc khai thác tài nguyên vẫn chưa đạt hiệu quả cao, hoat động du lịch phát triển còn trì trệ, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của vùng, và phía sau của sự phát triển còn tiềm ẩn những nguy cơ phá huỷ môi trường sinh thái, nhân văn… Ngày 01/08/2008 Ba Vì (tỉnh Hà Tây cũ) đã chính thức sát nhập vào thủ đô Hà Nội. Ba Vì cách trung tâm thành phố Hà Nội chừng 70 km, có thể nói là một khoảng cách rất thuận lợi cho phát triển du lịch – đặc biệt là du lịch cuối tuần. Việc khai thác các sản phẩm từ rừng phục vụ phát triển du lịch là một trong những hướng phát triển du lịch hiện nay trên thế giới và Việt Nam. Huyện Ba Vì với diện tích lớn với nhiều sinh cảnh khác nhau có tiềm năng lớn để phát triển đa dạng các hình thức du lịch có sự khai thác sản phẩm từ rừng. Với mục đích đánh giá tiềm năng để phát triển du lịch của Ba Vì, chúng tôi đã thực hiện đề tài: "Nghiên cứu đánh giá tiềm năng du lịch với các sản phẩm từ rừng tại VQG Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội".


Chương 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. Tổng quan về du lịch sinh thái

1.1.1. Khái niệm về du lịch sinh thái

Từ những năm đầu thế kỷ XIX, khái niệm du lịch sinh thái (DLST) xuất hiện với hàm ý mọi hoạt động du lịch có liên quan đến thiên nhiên như tắm biển, nghỉ mát, leo núi,... đều gọi là du lịch sinh thái. Đến nay, khái niệm du lịch sinh thái đã có sự phát triển với hàng chục kiểu khác nhau.

Năm 1987, một định nghĩa hoàn chỉnh về du lịch sinh thái đã được Hector Ceballos - Lascurain lần đầu tiên đưa ra: Du lịch sinh thái là du lịch đến những khu vực tự nhiên còn ít bị thay đổi với những mục đích đặc biệt như: Nghiên cứu, tham quan với ý thức trân trọng thế giới hoang dã và những giá trị văn hóa được chấm phá (Bộ KHCN&MT, 2002).

Theo Hiệp hội DLST Hoa Kỳ năm 1998: DLST là du lịch có mục đích với các khu tự nhiên, hiểu biết về lịch sử văn hóa và lịch sử tự nhiên của môi trường, không làm biến đổi tình trạng của hệ sinh thái, đồng thời ta có cơ hội để phát triển kinh tế, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và lợi ích tài chính cho cộng đồng địa phương.

Tổ chức bảo tổn thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đã định nghĩa: "Du lịch sinh thái là loại hình du lịch và tham quan có trách nhiệm với môi trường tại những vùng còn tương đối nguyên sơ để thưỏng thức và hiểu biết thiên nhiêncó hỗ trợ đối với bảo tồn, giảm thiểu tác động từ khách du lịch, đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế- xã hội của nhãn dân địa phương.

Ở Việt Nam, tại cuộc hội thảo quốc gia bàn về: Xây dựng chiến lược phát triển du lịch sinh thái ở Việt Nam từ ngày 7 - 9/8/1999 Tổng cục Du lịch Việt Nam, ESCAP, WWF, IUCN đã đưa ra định nghĩa về DLST ở Việt Nam theo đó:


DLST là loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên và văn hóa bản địa, gắn với môi trường, có đóng góp nỗ lực bảo tồn và phát triển bền vững, với sự tham gia tích cực của cộng đồng địa phương (Nguyễn Đức Hậu, 2007).

Tuy các khái niệm về DLST còn khác nhau về cách diễn đạt và ngôn ngữ thể hiện. Nhưng có sự thống nhất cao về những đặc điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, DLST bao gồm tất cả các loại hình du lịch dựa vào thiên nhiên, trong đó mục đích chính của khách du lịch là tham quan tìm hiểu khám phá những giá trị văn hóa truyền thống ở các khu du lịch.

Thứ hai, DLST bao gồm những hoạt động giáo dục, tuyên truyền về môi trường sinh thái.

Thứ ba, DLST hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến môi trường, văn hóa, xã hội.

Thứ tư, DLST hỗ trợ cho hoạt động bảo tồn tự nhiên thông qua việc tạo ra lợi ích kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho cộng đồng dân cư, nâng cao nhận thức, hiểu biết về bảo tồn đa dạng sinh học và các giá trị tự nhiên khác cho du lịch và người dân bản địa.

1.1.2. Khái niệm về tài nguyên du lịch

Theo Luật du lịch năm 2005 của Quốc hội Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cơ sở để phát triển ngành du lịch. Đó là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử – văn hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.

Theo Luật Du lịch 2017, tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên và các giá trị văn hóa làm cơ sở để hình thành sản phẩm du lịch, khu du lịch, điểm du lịch, nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch.

* Khái niệm sản phẩm du lịch sinh thái: là tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch sinh thái để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch.


1.1.3. Đặc trưng của du lịch sinh thái

* Đặc trưng thứ nhất: DLST mang tính đa ngành

Tính đa dạng ngành của DLST thể hiện ở 2 góc đó sau:

- Đối tượng được khai thác để phục vụ các hoạt động DLST là rất đa dạng và liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực như: Cảnh quan tự nhiên, các giá trị lịch sử, văn hóa, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ kèm theo.

- DLST mang lại nguồn thu cho nhiều ngành kinh tế khác thông qua các sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khác du lịch (điện, nước, nông sản, hàng hóa...).

* Đặc trưng thứ hai: Thành phần tham gia DLST rất đa dạng

Thực tế cho thấy có nhiều các nhân, tổ chức chính phủ, tổ chức phi chính phủ và cộng động tham gia các hoạt động DLST. Nhiều thành phần tham gia làm việc cho tổ chức, quản lý các hoạt động DLST phức tạp, đòi hỏi phải có sự kết hợp hài hòa giữa các thành phần với nhau.

* Đặc trưng thứ ba: DLST hướng tới nhiều mục đích

DLST không chỉ nhằm mục đích thu lợi nhuận giống như ngành kinh doanh khác mà còn nhằm góp phần bảo tồn thiên nhiên các cảnh quan lịch sử văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống của du khách và những người tham gia các hoạt động du lịch, mở rộng sự giao lưu văn hóa, kinh tế và nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cộng đồng về đa dạng sinh học, phát triển bền vững.

* Đặc trưng thứ tư: DLST mang tính mùa vụ

Các hoạt động DLST không phân bố đều trong năm mà tập trung với cường độ cao trong những khoảng thời gian nhất định trong năm: Các loại hình du lịch nghỉ biển, leo núi, tìm hiểu tập tính động vật (quan sát chim di cư, quan sát bướm, thực vật...) theo mùa (theo tính chất khí hậu, mùa di cư, xuất hiện của động vật) thể hiện rõ ở tính mùa vụ.

* Đặc trưng thứ năm: DLST có tính liên vùng

Các hoạt động DLST thường không chỉ diễn ra ở một địa phương, một khu vực mà có sự liên thông giữa các điểm du lịch trong một khu vực, các vùng và giữa các quốc gia với nhau.


* Đặc trưng thứ sáu: Chi phí

Du khách tham gia DLST nhằm hưởng thụ các sản phẩm du lịch chứ không phải với mục đích kiếm tiền. Họ sẵn sàng bỏ ra những khoản chi phí cho chuyến du lịch, nhằm khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú, môi trường hấp dẫn, bản sắc văn hóa bản địa độc đáo...

* Đặc trưng thứ bảy: Xã hội hóa các hoạt động DLST

DLST thu hút nhiều người, tổ chức kinh tế, xã hội; cộng đồng trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia hoạt động du lịch; lợi ích do DLST mang lại được xã hội hóa rất rộng rãi; nhiều người, tổ chức, cộng đồng được hưởng lợi từ DLST.

* Đặc trưng thứ tám: Giáo dục nhận thức về môi trường

DLST giúp con người tiếp cận gần hơn nữa với các vùng tự nhiên và khu bảo tồn, nơi có giá trị đa dạng sinh học và nhạy cảm về môi trường. Qua các hoạt động du lịch sinh thái, nhận thức các khách du lịch, của người dân, cộng đồng dân cư về đa dạng sinh học và môi trường được nâng cao.

* Đặc trưng thứ chín: Bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên và duy trì tính ĐDSH

DLST bao gồm cả hoạt động giáo dục, nâng cao nhận thức và hình thành ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho khách du lịch, những người tham gia hoạt động du lịch. Qua đó thúc đẩy các hoạt động bảo vệ môi trường, tăng cường nguồn lực duy trì và bảo tồn ĐDSH.

* Đặc trưng thứ mười: Sự tham gia của cộng đồng địa phương

Sự tham gia của cộng đồng địa phương là một đặc trưng cơ bản của DLST. Cộng đồng địa phương với tư cách là chủ sở hữu các nguồn tài nguyên thiên nhiên nên sự tham gia của cộng đồng vào DLST có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, sự tham gia của cộng đồng mang lại sự phong phú, đa dạng của DLST trên cơ sở phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử của địa phương, mặt khác tăng thêm khả năng quản lý, bảo tồn nguồn tài nguyên.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 06/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí