Đơn Sáng Chế Pct Của Một Số Nước Đông Bắc Á Và Đông Nam Á



T T


Kỹ năng

Mức độ và tỷ lệ lựa chọn

Rất thành thạo

Thành thạo

Chưa thành

thạo

Yếu

SN

%

SN

%

SN

%

SN

%

1

Xây dựng văn bản

12

8

31

20,7

92

61,3

15

10

2

Phối hợp trong cụng tỏc

16

10,7

45

30

86

57,3

3

2

3

Lập kế hoạch cụng tỏc

cỏ nhõn

25

16,7

36

24

85

56,7

4

2,6

4

Khả năng giao tiếp và

thuyết trỡnh

46

30,7

54

36

36

24

14

9,3

5

Tiếp nhận và xử lý thụng

tin

24

16

46

30,7

64

42,7

16

10,6

6

Phõn tớch và giải quyết

cụng việc

26

17,3

54

36

64

42,7

6

4

7

Tin học

45

30

65

43,3

25

16,7

15

10

8

Ngoại ngữ

15

10

56

37,3

64

42,7

15

10

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 265 trang tài liệu này.

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam - 15

Nguồn:[173].

Theo kết quả khảo sát, kỹ năng của đội ngũ cán bộ hành chính thừa hành có sự khỏc biệt so với cán bộ quản lý hành chính và chuyên gia. Nếu như kỹ năng của cán bộ quản lý hành chính và chuyên gia đạt ở mức thành thục trở lên chiếm tỷ lệ cao thỡ đối với công chức thừa hành lại chiếm tỷ lệ thấp. Như kỹ năng xây dựng văn bản, chuyên gia đạt từ mức thành thục trở lên đạt tới 100% thỡ ở cán bộ hành chính thừa hành chỉ đạt 28,7%. Trong số các kỹ năng đưa ra, kỹ năng đạt ở mức từ thành thục trở lên cao nhất là kỹ năng tin học (73,3%), tỷ lệ này lại cao hơn nhiều so với chuyên gia (36,7%) và cán bộ quản lý (33,6%). Lý do chủ yếu của sự chờnh lệch này là cán bộ hành chính thừa hành chủ yếu lớp trẻ chiếm rất đông (nghiên cứu trên lớp chuyên viên) nên đây là lớp công chức được sống trong thời đại mới tiếp thu một nền giáo dục hiện đại có điều kiện để tiếp cận với công nghệ tin học từ sớm. Tuy nhiên, đối với kỹ năng về ngoại ngữ đội ngũ này cũng không khả dĩ hơn đội ngũ công chức là chuyên gia và quản lý.

Như vậy, kết quả khảo sát mẫu đối với ba đội ngũ nêu trên đã phần nào phản ánh được thực trạng về mức độ thành thạo thấp trong việc thực hiện các kỹ năng ở những lực lượng quan trọng nhất của nguồn nhân lực CLC, đó là đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ chuyên gia và đội ngũ cán bộ hành chính thực hành. Trong đó, điều đáng nhấn mạnh nhất là mức độ thành thạo công nghệ (thông qua kỹ năng tin học) và mức độ thành thạo ngoại ngữ (thông qua kỹ năng ngoại ngữ) của cả ba đội ngũ trên đều rất thấp. Đây là một lực cản rất lớn để những đội ngũ này phát huy khả năng thích ứng trong quá trình tiếp thu những tri thức hiện đại phục vụ cho công việc chuyên môn, góp phần phát triển đất nước.

c, Các chỉ số phản ánh tố chất sáng tạo của nguồn nhân lực CLC Việt

Nam

Sáng tạo là một tố chất không thể thiếu của nguồn nhân lực CLC trong

mọi thời kỳ, đặc biệt trong thời kỳ có sự chuyển biến mang tính cách mạng của thời đại ngày nay. Cho đến nay, chưa có chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của nguồn nhân lực CLC nói chung, tuy nhiên, việc đánh giá thường được chú trọng vào đội ngũ các nhà khoa học – những người mà hoạt động chuyên môn gắn liền với đặc thù sáng tạo. Nói tới đội ngũ các nhà khoa học là bao gồm cả đội ngũ nhà khoa học tự nhiên và công nghệ và đội ngũ nhà khoa học xã hội.

Tố chất sáng tạo của đội ngũ nhà khoa học tự nhiên và công nghệ

Đánh giá về hoạt động sáng tạo của đội ngũ các nhà khoa học Việt Nam, chúng ta nhận thấy sáng chế của Việt Nam có đăng ký quốc tế quá ít.

(1) Số đăng ký sáng chế quốc tế

Trong giai đoạn 2002-2007, tổng số đơn đăng ký sáng chế của Singapore là 2.504 đơn, Malaysia có 264 đơn, Philippines có 116 đơn, Thái Lan có 53 đơn, trong khi đó Việt Nam chỉ có vẻn vẹn 26 đơn. Trong đó có những năm, số lượng đơn đăng ký sáng chế rất thấp : 2002 (2 đơn), 2004 (2 đơn), 2007 (5 đơn) và thậm chí năm 2005 Việt Nam không có đơn đăng ký sáng chế nào. Như vậy, nếu khả năng sáng tạo được tính thông qua số đăng ký sáng chế quốc tế thì thực sự khả năng này của nguồn nhân lực CLC Việt Nam thật quá ít ỏi. Khả năng này

phản ánh mực độ hội nhập vào xu thế phát triển ở trình độ KTTT của Việt Nam là rất thấp.

Bảng 2.19: Đơn sáng chế PCT của một số nước Đông Bắc á và Đông Nam á


Nước

2002

2003

2004

2005

2006

2007

Nhật

14.063

17.414

20.264

24.869

27.033

27.731

Hàn Quốc

2.520

2.949

3.558

4.688

5.944

7.061

Trung Quốc

1.018

1.295

1.706

2.503

3.951

5.456

Singapore

330

282

431

443

476

542

Malaysia

18

-

45

38

60

103

Philippine

20

21

11

26

23

15

Thái Lan

9

7

12

9

11

5

Indonesia

16

2

6

8

8

9

Việt Nam

2

7

2

0

10

5

Nguồn: WIPO - World Intellectual Property Organization

Theo các báo cáo của WIPO, từ năm 2002 đến nay, tỉ lệ phát triển rất cao về số lượng đơn đăng ký quốc tế sáng chế theo PCT (Hiệp ước Hợp tác sáng chế) được ghi nhận ở các nước Đông Bắc Á, nhất là Hàn Quốc và Trung Quốc. Hiện nay, hai nước này cùng với Nhật đang nằm trong nhóm 10 nước xuất xứ có số lượng đơn đăng ký quốc tế (đơn PCT) nhiều nhất. Tỷ lệ này ở Việt Nam là rất thất thường, không ổn định và không có sự gia tăng đều đặn theo thời gian. Tố chất sáng tạo của nguồn nhân lực không có sự phát huy và phát triển, thậm chí còn có những sự thụt lùi.


Biểu đồ 2.1: Đơn sáng chế PCT của Việt Nam giai đoạn 2002-2007


12


10

10

8

7

6

5

4


2

2

2

0

2002

2003

2004

0

2005

2006

2007

Năm

Số bằng đăng ký quốc tế

Nguồn : WIPO - World Intellectual Property Organization

Như vậy, khả năng sáng tạo công nghệ và kỹ thuật của nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam còn rất thấp theo chuẩn quốc tế.

(2) Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế

Theo ISI (Viện Thông tin khoa học -Institute for Scientific Information - có trụ sở tại Mỹ), trong vòng 11 năm, từ 1996-2007, các nhà khoa học Việt Nam thuộc 27 ngành ( trong đó có y học lâm sàng; vật lý; động, thực vật học; toán; kỹ thuật; sinh học và hoá sinh; hoá; nông nghiệp; vi sinh; môi trường; khoa học vật liệu; miễn dịch học; dược; sinh học phân tử và di truyền; khoa học thần kinh; toán; kinh tế…) đó công bố tổng cộng 5872 bài báo khoa học trên các tạp chí quốc tế chuẩn mực.


Bảng 2.20: Số lượng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam theo từng năm, từng lĩnh vực giai đoạn 1996 -2007


Năm

1996

1997

1998

1999

2000

2001

2002

2003

2004

2005

2006

2007

TNG S

282

315

289

343

349

331

341

577

608

721

830

886

LĨNH VC













Nông nghiệp

49

64

75

70

73

66

65

113

111

157

164

171

Nghệ thuật và nhân văn





1


1


1


4

1

Hoá sinh, gen và sinh học

16

30

29

30

27

24

30

48

60

75

86

84

Kinh doanh, quản trị và kế toán



3

4

1

2

3

5

3

7

9

7

Công nghệ hoá học

2

5

7

7

4

4

7

7

13

17

13

15

Hoá học

24

28

26

35

33

28

18

39

43

60

51

57

Khoa học máy tính

5

8

6

13


8

6

13

20

21

52

52

Khoa học quản lý

7

12

4

9

4

13

9

10

10

17

15

24

Nha khoa


2

1


3



1



2


Khoa học trái đất và địa cầu

13

19

15

12

23

24

12

25

34

36

32

49

Kinh tế, tài chính


1


3


3

7

3

4

5

10

7

Năng lượng

10

3

5

3

5

3

1

9

1

14

6

8

Công nghệ hoá học

14

29

16

32

25

21

28

41

78

78

57

61




Khoa học môi trường

15

18

15

15

22

25

22

30

40

60

58

76

Sức khoẻ

4



1

2

4

2

2

7

2

6

4

Miễn dịch học và vi sinh học

22

26

38

38

31

23

32

54

71

79

82

116

Khoa học vật liệu

26

15

26

28

22

28

20

64

37

31

52

59

Toán học

59

52

41

47

47

53

56

66

71

91

109

105

Dược học

65

56

59

75

75

57

65

124

128

175

206

207

Nghiên cứu đa ngành

1

1




2



3

3

7

6

Khoa học thần kinh

5

1

1

4

6

2

2


2

1

6

3

Điều dưỡng

1




1

2

10

2

1

5

3

7

Dược lý

14

14

21

21

22

14

10

18

29

37

35

27

Thiên văn học

51

66

45

53

68

64

55

130

91

79

115

131

Tâm lý học

1


2

3

5


5

3

5

5

2

4

Khoa học xã hội

10

5

11

12

6

14

35

23

33

38

45

36

Thú y

3

1

4

8

11

11

11

9

10

14

23

21

Nguồn : [174].

Theo thông kê trên, mức độ gia tăng bài báo công bố quốc tế của Việt Nam có thể chia thành hai giai đoạn.

Giai đoạn 1996 – 2001 : sự gia tăng không đều giữa các năm, có những năm còn giảm sút so với năm trước. Cụ thể, năm 1997 có 315 bài nhưng năm 1998 chỉ có 289 bài, năm 2000 có 349 bài nhưng năm 2001 chỉ có 331 bài. Điều này phản ánh hoạt động sáng tạo không liên tục và không theo kịp xu hướng phát triển mạnh mẽ của nền KH – CN thế giới của các nhà khoa học Việt Nam.

Giai đoạn 2002 – 2007 : sự gia tăng đều đặn thể hiện rõ nét giữa các năm với mức độ gia tăng nhiều hơn hẳn so với giai đoạn trước. Có những năm số lượng bài báo tăng hơn hàng trăm so với năm trước. Năm 2003 tăng 236 bài so với năm 2002, năm 2005 tăng 113 bài so với năm 2004, năm 2006 tăng 109 bài so với năm 2005. Đây là một biểu hiện đáng ghi nhận của các nhà khoa học Việt Nam trong nỗ lực sáng tạo tri thức theo xu hướng của thời đại. Trong những bài báo đó, nội dung chủ yếu thuộc về các lĩnh vực nông nghiệp, miễn dịch học và vi sinh học, thiên văn học, dược học, toán học… Từ các con số trên có thể thấy rằng các công bố quốc tế đến từ tất cả các lĩnh vực, và chủ yếu là từ các lĩnh vực khoa học ứng dụng, chứ không phải là đặc thù riêng của các lĩnh vực lý thuyết như Toán hay Vật lý - như quan niệm ấu trĩ của một số nhà khoa học Việt Nam.

Tuy nhiên, với tổng số 5.872 bài báo công bố quốc tế, Việt Nam vẫn còn khoảng cách vô cùng lớn so với các quốc gia khác trong khu vực và trên thế giới. Số công bố quốc tế các ngành của Thái Lan là 33.205 bài báo; Malaysia: 21.034; Hàn Quốc: 263.401. Riêng Trung Quốc, trong khoảng thời gian nói trên, các nhà khoa học nước này đó công bố tới 960.669 bài báo.

Bảng 2. 21: Bài báo công bố quốc tế và chỉ số h của một số quốc gia năm 2007



Thứ hạng


Nước


Số bài báo

Số bài báo được trích dẫn


Số lần trích dẫn


Số lần tự trích dẫn

Số trích dẫn/bài

báo

Chỉ số H index

1

Mỹ

3,872,452

3,639,512

54,818,003

26,786,119

14.45

889

2

Anh Quốc

1,101,302

1,003,630

12,762,128

3,303,391

12.34

535

3

Nhật Bản

1,098,902

1,076,272

9,068,209

2,991,900

8.49

421

4

Đức

1,009,736

959,527

10,782,310

3,058,806

11.27

468


5

Trung

Quốc


960,669


955,118


2,363,808


1,170,867


3.66


189

6

Pháp

729,133

692,100

7,461,900

1,849,838

10.75

431

14

Hàn Quốc

263,401

259,696

1,390,466

348,788

6.66

188

41

Thái Lan

33,205

32,421

165,523

31,364

6.64

97

49

MaLai

21,034

20,469

72,952

13,493

4.72

68

64

Indonesia

7,728

7,580

46,433

5,477

6.80

61

67

Philippines

6,474

6,320

46,141

6,404

7.90

67

69

Việt Nam

5,872

5,757

35,428

5,137

7.45

62

Nguồn : [174]

Trong cùng khoảng thời gian nhưng các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được số bài báo khoa học bằng 1/4 so với Malaysia (trong khi số dân nước ta lớn hơn 3 lần số dân Malaysia), 1/6 số bài của Thái Lan, dưới 1/11 của quốc đảo Singapore, 1/45 của Hàn Quốc, 1/164 của Trung Quốc (số dân VN bằng 1/16 TQ). Vì vậy chỉ số h (Xem thêm phụ lục 8)– chỉ số đánh giá khả năng sáng tạo của các nhà khoa học của Việt Nam là rất thấp, với 62 điểm. Chỉ số h của các nhà khoa học Mỹ đạt mức điểm 889, gấp 14 lần của Việt Nam. Các nhà khoa học Trung Quốc có số lượng bài báo quốc tế lớn gấp 164 lần của Việt Nam nhưng chỉ số h cũng chỉ đạt 189 điểm, gấp 3 lần số điểm của Việt Nam. Điều

Xem tất cả 265 trang.

Ngày đăng: 06/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí