Loại Hình Tổ Chức Sản Xuất Kinh Doanh Của Trang Trại:


- Thứ hai hầu hết các chủ trang trại không đủ để đáp ứng những điều kiện vay vốn của ngân hàng do đó gặp nhiều khó khăn khi huy động vốn từ nguồn này.

Tỉ lệ vốn vay còn nhỏ phản ánh sức huy động vốn đầu tư vào sản xuất nông nghiệp còn yếu, đồng thời cũng cho thấy khả năng làm giàu còn hạn chế của một bộ phận đông đảo nông dân. Nếu như làm kinh tế trang trại chỉ có thể là những người có sẵn tiền trong tay thì sẽ có hai hậu quả: Một là gây nên tình trạng ứ đọng vốn trong các ngân hàng nông nghiệp, hai là chưa có điều kiện thuận lợi để nâng cao nhanh mức sống cho đại bộ phận nông dân nghèo.

Biểu 8: Vốn sản xuất của trang trại năm 2007


Đơn vị tính: Triệu đồng



Xã, Thị Trấn

Tổng

vốn đầu tư của trang trại

Tổng vốn đầu tư Bình quân

1 trang trại

Vốn của Chủ trang Trại

Vốn bình

quân của chủ

1 trang trại


Vốn vay Ngân Hàng


Vốn vay Ngân hàng Bình quân 1 trang

trại


Vốn khác

TT Q Chu

665

95

545

77,9

85

12,14

35

Phúc Lương

225

45

190

38

10

2,00

25

Đức Lương

160

160

120

120

20

20,00

20

Phú Cường

220

73,3

175

58,3


0,00

45

Na Mao

473

118,3

355

88,75

90

22,50

28

Phú Lạc

336

84

284

71

25

6,25

27

Tân Linh

585

117

490

98

55

11,00

40

Phú Thịnh

135

135

120

120

10

10,00

5

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 128 trang tài liệu này.

Nghiên cứu các giải pháp phát triển kinh tế trang trại huyện Đại Từ đến năm 2010 - 9



Phú Xuyên

45

45

40

40


0,00

5

Bản Ngoại

38

38

38

38


0,00


Tiên Hội

405

81

295

59

70

14,00

40

Hùng Sơn

2850

259,1

2168

197,1

600

54,55

82

Cù Vân

210

210

150

150

25

25,00

35

La Bằng

176

88

133

66,5

30

15,00

13

Hoàng

Nông

160

80

145

72,5

10

5,00

5

Khôi Kỳ

134

44,7

100

33,3

20

6,67

14

Tân Thái

610

87,1

525

75

80

11,43

5

Bình Thuận

421

140,3

370

123,3

30

10,00

21

Mỹ Yên

25

25

20

20

5

5,00

0

Vạn Thọ

185

92,5

158

79

27

13,50

0

Văn Yên

462

231

450

225

12

6,00


Cát Nê

315

45

250

50

59,14

8,45

5,86

Quân Chu

130

65

108

54

12

6,00

10

Tổng cộng

8965

102,58

7229

1954,65

1275,14

11,50

460,86

Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007.


2.3.1.1.3. Lao động


Theo số liệu thống kê của phòng Thống kê huyện thì dân số của huyện Đại Từ là trên 166 vạn người, chiếm 15,8% số dân cả tỉnh. Cả huyện có trên 80 nghìn lao động trong độ tuổi, trong đó tới 70% là lao động nông thôn.

Phần lớn các trang trại sử dụng lao động của gia đình là chính, một số có thuê thêm lao động thời vụ và lao động thường xuyên, tiền công thoả thuận


giữa hai bên. Tiền công thời vụ thường giao động từ 40 - 50.000đ/ngày công, còn đối với lao động thường xuyên, khoảng 1.200.000đ/tháng.

Bình quân mỗi trang trại có khoảng 5,1 lao động, trong đó của chủ trang trại bình quân là 2,7 người/trang trại, lao động thuê mướn thường xuyên chiếm 33%. Các xã có tỉ lệ này cao là Hùng Sơn (40,7%), TT Quân Chu (80%), Tân Thái (79%)... lao động thuê mướn thời vụ chiếm 32,99% bình quân mỗi trang trại khoảng 1,9 người.

Biểu 9: Tình hình sử dụng lao động của các trang trại


Đơn vị tính: Người



Xã, Thị Trấn


Tổng số lao động tham gia sản xuất của trang trại

Trong đó


Bình quân lao động / 1 trang trại

Thuê ngoài

Lao động tự có của chủ trang trại

Lao động thường xuyên

Lao động thuê thời vụ

TT Q Chu

40

5

14

21

5,7

Phúc Lương

15

2

3

10

3

Đức Lương

3

1


2

3

Phú Cường

14

1

4

9

4,7

Na Mao

12

4


8

3

Phú Lạc

21


11

10

5,3

Tân Linh

20

6

2

12

4

Phú Thịnh

6

1

3

2

6

Phú Xuyên

5

1

1

3

5

Bản Ngoại

5

2

1

2

5



Tiên Hội

25

1

6

18

5

Hùng Sơn

81

15

33

33

7,4

Cù Vân

4

1


3

4

La Bằng

14


6

8

7

Hoàng Nông

10


4

6

5

Khôi Kỳ

17

5

1

11

5,7

Tân Thái

41

5

19

17

5,9

Bình Thuận

15

3

4

8

5

Mỹ Yên

3



3

3

Vạn Thọ

10

2

3

5

5

Văn Yên

13

2

3

8

6,5

Cát Nê

28

5

7

16

4

Quân Chu

9

3

2

4

4,5

Tổng cộng

411

65

127

219

5,1

Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007


Trình độ của lao động trong các trang trại nhìn chung còn thấp. Lớp học cao nhất cho 1 người ở huyện Đại Từ là 3,9 triệu, riêng khu vực nông thôn là 3,8 (cao nhất cả nước) 14. Tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất kinh doanh hiện đại. Ngoài một số ít lao động chuyên môn làm các công việc như vận hành máy móc, thiết bị, còn lại đại bộ phận là lao động phổ thông, chưa đào tạo, chỉ có khả năng đảm nhận những công việc đơn giản như làm đất, trồng cây, chăn gia súc, gia cầm...


14 Báo cáo đánh giá 3 nă m (2002-2004) thực hiện chương trình phát triển kinh tế trang trại t ỉnh Thái Nguyên - tháng 12/2004.


Biểu 10: Thành phần xuất phát của các chủ trang trại


Đơn vị tính: Trang trại



Xã, Thị Trấn

Tổng số các trang trại

Chia ra


Nông dân

Công chức

đương chức, cán bộ xã

Cán bộ, công nhân hư u trí

Bộ đội,

công an trở lại địa phương


Khác

TT Q Chu

7

6



1


Phúc Lương

5

3

1

1



Đức Lương

1


1




Phú Cường

3

3





Na Mao

4

1

2


1


Phú Lạc

4

3




1

Tân Linh

5

4



1


Phú Thịnh

1

1





Phú Xuyên

1

1





Bản Ngoại

0






Tiên Hội

6

3

1

1

1


Hùng Sơn

10

9



1


Cù Vân

1



1



La Bằng

3

1

1

1



Hoàng Nông

1

1





Khôi Kỳ

3

1


1


1

Tân Thái

8

4

1

1

1

1

Bình Thuận

2

1

1




Mỹ Yên

2

1


1





Vạn Thọ

2

2





Văn Yên

2

2





Cát Nê

7

5


1

1


Quân Chu

2

2





Tổng cộng

80

54

8

8

7

3

Nguồn: Điều tra của tác giả tháng 12/2007


Qua biểu 10 ta thấy các chủ trang trại xuất phát 7 nguồn chính, bao gồm: Nông dân 54 người, Công chức đương nhiệm, cán bộ xã 8 người, cán bộ, công nhân hưu trí 8 người, bộ đội, công an địa phương trở lại địa phương 7 người, còn lại 3 người là các thành phần khác.

Như vậy đại bộ phận các chủ trang trại xuất phát từ tầng lớp nông dân, mới thoát ra từ sự thụ động của cơ chế bao cấp trong các hợp tác xã kiểu cũ và bước đầu làm chủ kinh tế nông hộ là một điều còn mới mẻ, nên còn nhiều bỡ ngỡ, còn mang dấu ấn nặng nề của kinh tế tự nhiên tự cấp, tự túc, nghiệp vụ và bản lĩnh kinh doanh còn rất bất cập trước yêu cầu phát triển sản xuất hàng hoá, đặt mình trong cơ chế thị trường, trong nhiều trường hợp vẫn chưa quen hẳn với phương thức sản xuất và quản lý hiện đại. Theo điều tra, chỉ có 32,5% số chủ trang trại được đào tạo từ sơ cấp trở lên, số có trình độ trung cấp chỉ chiếm 4,6%. Qua số liệu điều tra cho thấy thành phần chủ trang trại ảnh hưởng lớn đến kết quả sản xuất kinh doanh của trang trại, phần lớn các trang trại có chủ trang trại là công chức nhà nước về hưu và cán bộ cấp xã thì họ quản lý trang trại tốt hơn, các loại cây trồng, vật nuôi được lựa chọn vào sản xuất phù hợp hơn với nhu cầu thị trường, tỷ lệ áp dụng khoa học kỹ thuật mới nhiều hơn, vì vậy thu nhập của trang trại không ngừng tăng lên, trang trại này càng được mở rộng hơn, quy mô hơn. Đối với các chủ trang trại là nông dân thì đa số các trang trại có diện tích đất trang trại lớn, nhưng chủ yếu là sản


xuất cầm chừng, đầu tư cho sản xuất thấp, trang trại hình thành chủ yếu là do đạt chỉ tiêu về diện tích, không đạt chỉ tiêu về giá trị sản lượng. Chính vì vậy có thể nói nguồn nhân lực ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất của trang trại, trình độ nhân lực thấp không những hạn chế sự sáng tạo mà còn ảnh hưởng đến việc ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất của trang trại

2.3.1.1.4. Công nghệ kỹ thuật:


Cũng như tình trạng chung của toàn ngành nông nghiệp, trình độ khoa học công nghệ của các trang trại còn thấp, thậm chí rất thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực, vốn đã hoàn thành cơ khí hoá, điện khí hoá, hoá học hoá... từ lâu. Cho đến nay, sản xuất các trang trại, dù là tiến bộ hơn sản xuất của hộ gia đình phân tán, nhưng vẫn mang nặng tính thủ công lạc hậu và bất hợp lý. Lao động chủ yếu bằng tay chân và còn phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Tỉ lệ bình quân trang trại trang bị máy móc cho một ha gieo

trồng còn rất thấp dưới 5cv/ha, tỉ lệ cơ giới hoá làm đất mới chỉ đạt 21%15,

mức độ cơ khí hoá nhiều khâu như gieo cấy, gặt đập... còn hạn chế. Công việc bảo quản thu hoạch sản phẩm sau thu hoạch chủ yếu bằng năng lượng mặt trời, thiếu những hệ thống sấy hiện đại, quy mô lớn.

Tuy vậy, cũng có những dấu hiệu đáng mừng cho thấy khoa học công nghệ, từng bước đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sản xuất của trang trại. Các giống nông sản trong trang trại hầu hết đều là thành quả của các công trình nghiên cứu khoa học, là sản phẩm của công nghệ sinh học... cho năng suất cao, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu của thị trường nên sản phẩm bán ra thị trường chất lượng chưa cao, nhiều khi phải chịu thiệt thòi, bị ép giá.


15 Tạp chí công nghiệp Việt Na m tháng 5/2001.


Tóm lại, kinh tế trang trại huyện Đại Từ trong những năm qua mới gây ấn tượng mạnh ở tính quy mô của nó, còn tình hình sử dụng các yếu tố nguồn lực (đất đai, vốn sản xuất, lao động, khoa học công nghệ) thì chưa thật hợp lý và chắc chắn. Để có thể được coi là một nền nông nghiệp phát triển, sản phẩm sản xuất ra đáp ứng nhu cầu thị trường thì trong thời gian tới các trang trại, các yếu tố nguồn lực phải được sử dụng một cách hợp lý hơn, hiệu quả hơn.

2.3.1.2. Tổ chức hoạt động sản xuất của trang trại.


2.3.1.2.1. Loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của trang trại:


Trên cơ sở đất đai được giao, vốn tự có kết hợp với sức lao động của gia đình hoặc thuê thêm lao động, các chủ trang trại đã lựa chọn hướng kinh doanh sản xuất hàng hoá trên cơ sở kết hợp chuyên môn hoá với phát triển tổng hợp theo phương châm lấy ngắn nuôi dài, khai thác tổng hợp các tiềm năng sẵn có để phát triển kinh tế sớm đưa các trang trại vào định hình sản xuất. Trong các trang trại điều tra, hướng hoạt động chủ yếu là nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản với các loại hình sản xuất cây ngắn ngày, cây công nghiệp lâu năm, cây ăn quả. Các trang trại chăn nuôi chủ yếu là chăn nuôi đại gia súc, chăn nuôi lợn, gia cầm, trong lâm nghiệp chủ yếu là trồng rừng nguyên liệu, khoanh nuôi, thực hiện nông lâm kết hợp và trong thuỷ sản chủ yếu là nuôi trồng thuỷ sản trong nội đồng.

Trong số 17 trang trại trồng cây lâu năm thì có 17 trang trại trồng cây chè, cây chè được trồng nhiều nhất tại các trang trại xã Hùng Sơn với 7 trang trại, Thị trấn Quân Chu 5 trang trại.

Nhóm các trang trại kinh doanh chăn nuôi đang dần được hình thành ngày một nhiều hơn, trong số 23 trang trại chăn nuôi thì có đến 14 trang trại chăn nuôi gia súc nhỏ, tập trung chủ yếu ở các xã Hùng Sơn, Văn Yên, Na

Xem tất cả 128 trang.

Ngày đăng: 22/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí