Viên Chức Và Viên Chức Các Đơn Vị Sự Nghiệp Công Lập Thuộc Sở Y Tế


Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học quản lý công như:

Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu: Tác giả đã thu thập và phân tích số liệu từ các Phòng nghiệp vụ, Phòng Tổ chức cán bộ thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk về tình hình nhân sự, cơ cấu nhân lực của các đơn vị sự nghiệp y tế công lập qua 05 năm từ năm 2016 đến 2020. Từ đó đánh giá, phân tích về tình hình nhân sự của các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.

Phương pháp phỏng vấn, dự báo: Phương pháp phỏng vấn, dự báo được sử dụng để thu thập thông tin về chiến lược phát triển nhân sự, hoạch định nhân sự, các chính sách và giải pháp hoàn thiện công tác nâng cao năng lực viên chức y tế thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk, phỏng vấn tập trung vào các đối tượng như Ban Giám đốc, Trưởng/Phó các phòng nghiệp vụ, các đơn vị trực thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.

Phương pháp tổng hợp và xử lý số liệu: Tác giả dùng phần mềm Microsoft Excel để tổng hợp và xử lý số liệu.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Ý nghĩa thực tiễn:

Kết luận và các giải pháp rút ra từ luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc xây dựng, hoạch định chính sách nâng cao năng lực cho viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk nói chung, và cho UBND tỉnh Đắk Lắk trong thời gian đến.

Đưa ra được những đánh giá và nhận định về những tồn tại, nguyên nhân trong công tác nâng cao năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy về năng lực viên chức.


Năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk - 3

Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần hệ thống hóa và làm rõ hơn mặt lý luận về năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm 3 chương như sau:

Chương 1: Cơ sở khoa học về năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế.

Chương 2: Thực trạng năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.

Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế tỉnh Đắk Lắk.


Chương 1:

CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ NĂNG LỰC VIÊN CHỨC CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP THUỘC SỞ Y TẾ‌

1.1. Viên chức và viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế

1.1.1. Viên chức

1.1.1.1. Khái niệm, phân loại

Thuật ngữ “viên chức” thường được hiểu một cách khái quát là những người được các đơn vị sự nghiệp tuyển dụng, nhận một công việc hoặc một nhiệm vụ nhất định, do nhà nước trả lương từ nguồn ngân sách hoặc nguồn thu và có nghĩa vụ, bổn phận phục vụ nhân dân, phục vụ nhà nước theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng là viên chức sẽ khác nhau ở các quốc gia do thể chế chính trị, văn hóa và tổ chức chính trị khác nhau.

Ở Việt Nam, trước đây chúng ta chưa phân định rõ được khái niệm viên chức, công chức hay cán bộ chỉ cho đến khi Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 và Luật viên chức năm 2010 ra đời. Trong từng giai đoạn, các cơ quan nhà nước ban hành các văn bản pháp luật có sử dụng các thuật ngữ “cán bộ”, “công chức”, “viên chức” nhưng chưa có văn bản luật nào quy định cụ thể hay giải thích những thuật ngữ này. Ngày 20/5/1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí sắc lệnh số 76/SL - về việc ban hành Quy chế Công chức do Chủ tịch nước Việt nam Dân chủ cộng hoà ban hành. Theo sắc lệnh này: “Những công Dân Việt Nam được chính quyền nhân dân tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan Chính phủ, ở trong hay ở ngoài nước, đều là công chức theo Quy chế này, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính phủ định” [48]. Từ năm 1954 trở đi sắc lệnh số 76/SL hầu như không được áp dụng mặc dù không có văn bản nào chính thức bãi bỏ. Trong các văn bản pháp luật, thuật ngữ thường được sử dụng là "cán bộ, viên chức”. Nghị


định số 169/HĐBT ngày ngày 25 tháng 5 năm 1991 của Hội đồng Bộ trưởng Quy định về Công chức nhà nước: “Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở Trung ương hay địa phương; ở trong nước hay ngoài nước; đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách Nhà nước cấp gọi là công chức Nhà nước” [18]. Tiếp theo đó là Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 ngày 26/2/1998 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đã đánh dấu một bước phát triển mới trong công tác xây dựng quy định về cán bộ, công chức.

Đến năm 2003, Sau khi Pháp lệnh sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức 1998 được ban hành và đặc biệt được đánh dấu bởi các Nghị định 116, 117/2003/NĐ-CP thì khái niệm viên chức mới có sự phân biệt tương đối rõ với các khái niệm cán bộ, công chức. Điều 2 của Nghị định 116/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước quy định: “Viên chức là công dân Việt Nam, trong biên chế, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội hưởng lương từ ngân sách nhà nước và các nguồn thu sự nghiệp” [11]. Tuy pháp lệnh cán bộ, công chức năm 1998 đã qua hai lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đáp ứng được kịp thời các vấn đề phát sinh trong nền kinh tế thị trường.

Do đó, Ngày 13/11/2008, Quốc hội đã ban hành Luật cán bộ, công chức (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010) quy định cụ thể về cán bộ, công chức và Ngày 15/11/2010, Quốc hội đã ban hành Luật viên chức để quy định cụ thể về viên chức. Trong nền hành chính nhà nước, đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức luôn có sự liên thông và có thể luân chuyển, điều động theo từng yêu cầu của vị trí việc làm.


Luật Cán bộ, công chức năm 2008 đã tách hẳn nhóm đối tượng viên chức ra khỏi phạm vi cán bộ, công chức, phân biệt giữa hoạt động công vụ của công chức với hoạt động có tính chất chuyên môn, nghiệp vụ của viên chức, nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển các đơn vị sự nghiệp, nâng cao chất lượng của đội ngũ viên chức, đã quy định: “Các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến những người làm việc trong đơn vị sự nghiệp công lập mà không phải là cán bộ, công chức quy định tại Luật này được tiếp tục thực hiện cho đến khi ban hành Luật Viên chức” [32].

Vào năm 2010, Luật Viên chức được ban hành (Luật số 58/2010/QH12) và được sửa đổi một số điều vào năm 2019 (Luật viên chức 26/VBHN-VPQH ngày 16/12/2019), tại Điều 2,viên chức được quy định như sau: “ Viên chức là công dân Việt Nam được tuyển dụng theo vị trí việc làm, làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo chế độ hợp đồng làm việc, hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật”[31].

Hiện nay, tại Điều 3 Nghị định 115/2020/NĐ-CP ngày 25/09/2020, Chính phủ phân loại viên chức theo 02 tiêu chí:

Theo chức trách, nhiệm vụ: Viên chức quản lý và viên chức không giữ chức vụ quản lý;

Theo trình độ đào tạo: Viên chức giữ chức danh nghề nghiệp có yêu cầu trình độ đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ, đại học, cao đẳng và trung cấp” [12].

Như vậy, Luật viên chức quy định cơ chế quản lý phù hợp với viên chức. Với những quy định mới này, pháp luật về viên chức đã tiếp tục quy định những vấn đề thể hiện tính đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp của viên chức.

Theo đó, viên chức là những công dân có quốc tịch Việt Nam, đang sinh sống tại Việt Nam, không có các vướng mắc về hình sự, làm việc tại các đơn vị sự nghiệp công lập trong cả nước và hưởng lương từ ngân sách nhà


nước hoặc nguồn thu của các đơn vị sự nghiệp công lập với nhiều lĩnh vực khác nhau.

1.1.1.2. Tính chất, đặc điểm hoạt động nghề nghiệp của viên chức

Theo Điều 4, Luật viên chức: “hoạt động nghề nghiệp của viên chức là việc thực hiện công việc hoặc nhiệm vụ có yêu cầu về trình độ, năng lực, kĩ năng chuyên môn, nghiệp vụ trong đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan” [31].

Hoạt động nghề nghiệp của viên chức là hoạt động thuộc lĩnh vực cung ứng những dịch vụ công mà Nhà nước phải chịu trách nhiệm chủ yếu bảo đảm nhằm phục vụ nhân dân trong các lĩnh vực: y tế, giáo dục, khoa học và các lĩnh vực khác mà khu vực ngoài công lập chưa có khả năng đáp ứng hoặc chưa thể đáp ứng toàn bộ. Hoạt động nghề nghiệp của viên chức có những tính chất, đặc điểm sau:

Là hoạt động nhằm đáp ứng những nhu cầu cơ bản, thiết yếu để duy trì, phát triển cuộc sống cá nhân mỗi con người. Nhà nước phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ các nhu cầu này trong điều kiện có thể để phục vụ người dân. Các hoạt động này liên quan đến một số dịch vụ công như: giáo dục, đào tạo nghề nghiệp; chăm sóc sức khỏe, phòng chống dịch bệnh; nghiên cứu khoa học, phục vụ phát triển và đời sống nhân dân....

Được thực hiện trong các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng ngành nghề cụ thể có tính chất chuyên môn thống nhất. Mỗi lĩnh vực mà viên chức làm việc chỉ cung cấp và đáp ứng một loại nhu cầu cơ bản, cụ thể. Ví dụ, cấp các loại giấy phép liên quan đến việc làm ăn, sinh sống của dân và cả các hoạt động có tính chất dịch vụ công cộng như: trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu... Các nhu cầu này được thực hiện thông qua hoạt động nghề nghiệp của viên chức nên các đơn vị sự nghiệp thường được tổ chức theo tính chất chuyên môn sâu gắn với đặc thù từng ngành nghề cụ thể. Do đó, cơ chế


quản lý viên chức của các đơn vị này phụ thuộc vào tính chất, đặc điểm của hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ.

Các dịch vụ công được cung cấp bởi các đơn vị sự nghiệp công lập chủ yếu là sản phẩm phi vật thể, có tính chất công quyền, không thể định giá, không thể mặc cả. Hoạt động nghề nghiệp của viên chức được thực hiện nhân danh Nhà nước, thể hiện trách nhiệm của Nhà nước trong quá trình cung cấp các nhu cầu cơ bản, thiết yếu cho đại đa số người dân.

Hoạt động nghề nghiệp của viên chức đều dựa trên kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ, mang tính nghề nghiệp cao, phải được đào tạo, bồi dưỡng qua các trường, lớp và được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng, chứng chỉ. Trong đó, có một số hoạt động nghề nghiệp trong một số lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, thể thao đòi hỏi phải có năng khiếu và tài năng bẩm sinh. Trong các trường hợp này, văn bằng, chứng chỉ không phải là yếu tố quan trọng mà là tố chất và tài năng.

Hoạt động nghề nghiệp của viên chức tác động trực tiếp và sâu sắc đến thể lực, trí lực và đời sống tinh thần của người dân. Vì vậy, trong từng lĩnh vực ngành nghề phải có quy định và đề cao đạo đức nghề nghiệp, trách nhiệm, tận tâm để đáp ứng các nhu cầu của người dân. Ví dụ, trong ngành y tế có quy định về y đức đối với đội ngũ viên chức trực thuộc; trong ngành giáo dục có quy định về các hành vi nhà giáo không được làm, chính là đạo đức đối với đội ngũ nhà giáo...

Trong phạm vi toàn xã hội, hoạt động nghề nghiệp không chỉ nói riêng cho viên chức trong các đơn vị sự nghiệp công lập mà còn là hoạt động do người lao động có chuyên môn trong các đơn vị ngoài công lập thực hiện. Trên thực tế, dù công lập hay ngoài công lập thì nội dung, tính chất hoạt động nghề nghiệp đều có yêu cầu giống nhau. Chỉ khác một điểm duy nhất là hoạt động nghề nghiệp của viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập đặt mục tiêu


phục vụ nhân dân lên hàng đầu, không vì mục tiêu lợi nhuận tối đa. Còn các đơn vị ngoài công lập thì động cơ phục vụ chịu ảnh hưởng theo quy luật của cơ chế thị trường, gắn với mục tiêu lợi nhuận tối đa. Điểm đặc thù này nhắn nhủ đến nhà nước muốn phát triển kỹ năng, nghiệp vụ, năng lực của đội ngũ viên chức song song với sự phát triển bền vững của các đơn vị sự nghiệp công lập thì cần phải có các chế độ đãi ngộ xứng đáng, phù hợp để khuyến khích và thu hút nhân tài cho nhà nước sử dụng.

1.1.2. Viên chức các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Sở y tế

Theo khoản 1 Điều 9 Luật Viên chức 2010 quy định: “Đơn vị sự nghiệp công lập là tổ chức do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội thành lập theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, cung cấp dịch vụ công, phục vụ quản lý nhà nước” [31].

Và theo Nghị định số: 85/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2012 về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập:

“Đơn vị sự nghiệp y tế công lập” là tổ chức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập và quản lý theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, con dấu, tài khoản và tổ chức bộ máy kế toán theo quy định của pháp luật về kế toán để thực hiện nhiệm vụ cung cấp dịch vụ công hoặc phục vụ quản lý nhà nước trong các lĩnh vực chuyên môn y tế như: Y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh; điều dưỡng và phục hồi chức năng; giám định y khoa, pháp y, pháp y tâm thần; y dược cổ truyền; kiểm nghiệm dược, mỹ phẩm, trang thiết bị y tế; an toàn vệ sinh thực phẩm; dân số - kế hoạch hóa gia đình; sức khỏe sinh sản; truyền thông giáo dục sức khỏe (sau đây gọi tắt là đơn vị sự nghiệp y tế) [13].

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 08/08/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí