Vị Trí Du Lịch Bạc Liêu Trong Mối Liên Hệ Với Du Lịch Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long Và Vai Trò Đóng Góp Trong Tỉnh

- Hạ tầng về môi trường: Hệ thống hạ tầng môi trường chưa được phát triển nhiều. Ngoại trừ TP Bạc Liêu đã hoàn thành xây dựng cơ bản, còn lại đang trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Các dự án xứ lý nước thải tập trung, các khu công nghiệp, xử lý rác thải đô thị, các công trình ứng phó với nước biển dâng… đã có vốn đầu tư, đang đặt ra nhiệm vụ cho giai đoạn tới phải nhanh chóng hoàn thiện hạ tầng môi trường Bạc Liêu đảm bảo không bị ngập nước.

Nhìn chung hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh Bạc Liêu đã được mở rộng và nâng cấp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại dễ dàng; giao thông đường thủy cũng được nạo vét hai bên bờ sông, nhằm hạn chế ảnh hưởng đến việc tàu bè qua lại; hệ thống cung cấp điện, nước đã cơ bản đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của người dân địa phương, chỉ còn vài xã chưa đảm bảo cung cấp điện, nước sạch cho bà con; hệ thống viễn thông, hạ tầng môi trường từng bước được hoàn thiện. Đây là điều kiện khá tốt để phát triển du lịch tỉnh Bạc Liêu.

2.8.3 Vị trí du lịch Bạc Liêu trong mối liên hệ với du lịch vùng đồng bằng sông Cửu Long và vai trò đóng góp trong tỉnh

Trong vùng ĐBSCL, Bạc Liêu không phải là tỉnh có tiềm lực mạnh về mặt kinh tế - xã hội. Bạc Liêu chỉ là tỉnh đứng thứ 7/13 tỉnh về diện tích và thứ 12/13 tỉnh về dân số trong vùng ĐBSCL. Các chỉ tiêu về kinh tế của Bạc Liêu cũng xếp nửa dưới so với vùng ĐBSCL. Năm 2018, Bạc Liêu xếp thứ 10/13 tỉnh về chỉ tiêu GDP; thứ 8/13 tỉnh về chỉ tiêu GDP bình quân người và thứ 9/13 tỉnh về chỉ tiêu tổng vốn đầu tư xã hội.

Tuy nhiên, xét về tiềm năng phát triển du lịch Bạc Liêu là tỉnh có những lợi thế so sánh so với các tỉnh khác như vị trí địa lý thuận lợi khi nằm trên tuyến giao thông đường bộ cũng như đường thủy quan trọng nhất của vùng ĐBSCL (quốc lộ 1A; kênh xáng Cần Thơ - Cà Mau; kênh Quảng lộ - Phụng Hiệp…); tài nguyên du lịch có những nét độc đáo có khả năng cạnh tranh như các giá trị văn hóa, lịch sử gắn với Công tử Bạc Liêu, Dạ cổ hoài lang, tâm linh (Quán âm Nam Hải, nhà thờ Tắc Sậy…). Mặc dù vậy trong những năm vừa qua, vị trí và vai trò của Bạc Liêu trong du lịch vùng ĐBSCL còn rất nhỏ bé. Các số liệu thống kê đã chứng minh thực trạng này.

Tỷ trọng khách du lịch của Bạc Liêu trong vùng ĐBSCL năm 2018 mới đạt gần 10,21%, trong đó khách quốc tế đạt 1,26% và khách nội địa đạt hơn 8,95%. Tỷ trọng doanh thu du lịch của Bạc Liêu trong vùng ĐBSCL cũng không cao chỉ đạt gần 14,98% (năm 2018). Tương tự, các chỉ tiêu về buồng lưu trú và lao động cũng chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với vùng ĐBSCL.

Như vậy, mặc dù là tỉnh có những lợi thế về vị trí, giao thông và tiềm năng du lịch trong vùng ĐBSCL song trong những năm qua, Bạc Liêu chưa khai thác được những lợi thế này để phát triển du lịch, do tỷ trọng doanh thu của Bạc Liêu trong du lịch ĐBSCL còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng.

Bảng 2.4 Số liệu thống kê tương quan du lịch so với vùng ĐBSCL

ĐVT: %


STT

Hạng mục

2014

2015

2016

2017

2018


1

Tỷ trọng khách trong vùng ĐBSCL


9,35


9,53


9,81


10,00


10,21


Khách quốc tế

1,15

1,17

1,20

1,22

1,26


Khách nội địa

8,20

8,36

8,61

8,78

8,95


2

Tỷ trọng doanh thu trong

vùng ĐBSCL


13,8


14,07


14,49


14,77


14,98


3

Tỷ trọng buồng lưu trú trong vùng ĐBSCL


1,6


1,63


1,68


1,71


1,76


4

Tỷ trọng lao động trong vùng ĐBSCL


7,3


7,44


7,66


7,81


7,96

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 311 trang tài liệu này.

Nâng cao năng lực cạnh tranh điểm đến du lịch ở Bạc Liêu - 10

Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Bạc Liêu, 2018

2.8.4 Thực trạng phát triển du lịch tỉnh Bạc Liêu từ năm 2014-2018

2.8.4.1 Khách du lịch

Lượng khách du lịch đến Bạc Liêu mỗi năm đều tăng, từ năm 2014 đến năm 2018, đã đón khoảng 6.600.000 lượt, trong đó có 195.000 lượt khách quốc tế, tăng bình quân trên 16%/năm. Riêng năm 2018, khách du lịch đạt khoảng 1,8 triệu lượt, tăng gần 02 lần so với năm 2014 và đứng thứ 7/13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực ĐBSCL. Trong đó:

- Khách quốc tế:

Năm 2014, lượng khách quốc tế mới đạt 30.000 lượt khách, đến năm 2018 lượng khách đạt 51.000, gấp gần 2 lần so với năm 2014. Tuy nhiên, tỷ trọng khách quốc tế đến Bạc Liêu trong tổng số khách du lịch đến Bạc Liêu rất nhỏ, trong suốt giai đoạn 2014 - 2018 khách quốc tế không vượt quá 3% tổng lượng khách du lịch đến Bạc Liêu.

- Khách nội địa:

Là bộ phận khách chính của Bạc Liêu đồng thời có xu hướng tăng trưởng khá ổn định, tốc độ tăng trưởng bình quân cao, đạt khoảng 16,52%/năm (12,89

+ 13,64 + 19,23 + 20,35 = 66,11/4=16,52%). Tỷ trọng khách du lịch nội địa trong giai đoạn 2014 - 2018, chiếm hơn 97% trong tổng số khách du lịch cả tỉnh.

Bảng 2.5 Lượng khách đến tham quan Bạc Liêu

Đơn vị tính: Người




Số lượt khách đến

Trong đó



% tăng, giảm so So với năm trước

Năm

Khách QT

Khách NĐ

Tăng

trưởng

2014

973.461

30.521

942.940



2015

1.099.012

35.101

1.063.911

+125.551

+12,89

2016

1.248.902

38.474

1.210.428

+149.890

+13,64

2017

1.489.121

40.036

1.449.085

+240.219

+19,23

2018

1.792.142

51.267

1.740.875

+303.021

+20,35

(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Bạc Liêu, 2018)

2.8.4.2 Nguồn thu khách du lịch

Thu từ du lịch của Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 tăng trưởng với tốc độ tương đối cao. Năm 2014 thu từ du lịch đạt 870 tỷ đồng, đến năm 2018 đạt 1.600 tỷ đồng, tăng gần 2 lần, đứng thứ 4/13 tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL, tăng trưởng bình quân đạt 16,44%/năm.

* Doanh thu ngành du lịch

Giai đoạn 2014 - 2018 bình quân mỗi năm doanh thu là 1.172 tỷ đồng, tốc độ tăng là 16,53 %, đóng góp một phần thu nhập vào GDP của tỉnh. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch phát triển đã thu hút khá đông lực lượng lao động tham gia vào các đơn vị kinh doanh du lịch. Ngoài số lao động tham gia trực tiếp và lao động gián tiếp của các đơn vị du lịch, hoạt động du lịch còn thu hút hàng ngàn người khác tham gia kinh doanh thương mại ở các điểm du lịch trong toàn tỉnh. Những năm qua, ngành du lịch Bạc Liêu đã có những chuyển biến tích cực, mạnh dạn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng các tuyến điểm tham quan để thu hút khách du lịch, đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí của nhân dân trong nước và du khách nước ngoài.

Bảng 2.6 Doanh thu ngành du lịch Bạc Liêu

Đơn vị tính: Triệu đồng



Năm


Doanh thu

Tăng (+), giảm (-) so với năm trước

Tốc độ tăng trưởng (%)

2014

870.015



2015

975.201

+105.186

12,09

2016

1.102.381

+127.180

13,04

2017

1.316.396

+214.015

19,41

2018

1.600.248

+283.852

21,56

(Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và du lịch Bạc Liêu, 2018)

2.8.4.3 Thực trạng thị trường khách du lịch của Bạc Liêu

- Khách nội địa: Chủ yếu là đến với mục đích kết hợp công việc, khách hành hương là bộ phận khách lớn nhất của Bạc Liêu, trong khi đó khách đến vì mục đích du lịch thuần túy chiếm tỷ lệ thấp; đa số khách du lịch nội địa của Bạc Liêu đến từ Miền bắc, Miền trung, khu vực Tây nguyên, thành phố Hồ Chí Minh, khu vực Đông Nam Bộ và các tỉnh ĐBSCL.

- Khách quốc tế: Chủ yếu là Việt kiều đến Bạc Liêu với mục đích thăm người thân, trong khi khách đến với mục đích du lịch thấp, thị trường khách quốc tế của Bạc Liêu có đặc điểm sau:

+ Phạm vi thị trường rộng lớn bao gồm hầu hết các thị trường khách lớn nhất của du lịch Việt Nam.

+ Không có thị trường mang tính chiến lược cho du lịch Bạc Liêu. Từ năm 2014 đến nay, không có thị trường nào vượt quá 15% trong tổng số khách quốc tế đến Bạc Liêu.

* Hiện trạng du lịch ở Bạc Liêu

Hiện nay, các Công ty du lịch đã xây dựng một số chương trình du lịch ngoài tỉnh vào những ngày nghỉ cuối tuần tại những điểm du lịch nổi tiếng trong cả nước, liên kết với một số Công ty du lịch ngoài tỉnh tổ chức đưa khách đến Bạc Liêu. Qua nghiên cứu thực tế, hoạt động lữ hành nội địa chưa phát triển mạnh, việc thực hiện các tour du lịch trọn gói còn hạn chế, thiếu phương tiện chất lượng cao và thiếu cán bộ chuyên nghiệp phục vụ công tác du lịch. Do đó, hiệu quả mang lại chưa cao, chưa thật sự thể hiện đúng chức năng của loại hình kinh doanh du lịch. Các công ty du lịch chưa quan tâm

nhiều đến khai thác sân chim Bạc Liêu, sân chim Lập Điền, vườn nhãn Bạc Liêu, biển - Nhà Mát,… chỉ có một số lượng khách du lịch đi theo loại hình nghiên cứu khoa học, tham quan, hành hương. Cho nên, hầu như các tuyến điểm du lịch trên chưa hình thành loại hình du lịch đúng nghĩa, chưa khai thác hết tiềm năng thật sự của nó.

Nhìn chung, việc khai thác các tuyến điểm du lịch Bạc Liêu còn mang tính tự phát, chưa đầu tư xây dựng thành một điểm du lịch thật sự. Do đó, việc nghiên cứu các tuyến du lịch của tỉnh là rất cần thiết, giúp cho các nhà đầu tư, nhà quản lý có kế hoạch phát triển thành tuyến du lịch thật sự hấp dẫn nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước. Đồng thời giúp người dân nâng cao nhận thức cao hơn trong việc bảo vệ môi trường. Điều này, nhằm mục đích nâng cao đời sống của người dân địa phương, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.

* Hệ thống khách sạn

Toàn tỉnh hiện có 35 khách sạn, với 1.500 phòng, trong đó có 400 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế, là khách sạn New Palace với 150 phòng đạt chuẩn 4 sao, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam 70 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Sài Gòn Bạc Liêu với 100 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao, khách sạn Trần Vinh 80 phòng đạt tiêu chuẩn 3 sao, ngoài ra các khách sạn khác có quy mô vừa và nhỏ từ 30 phòng đến 50 phòng. Các khách sạn chủ yếu phân bổ ở nội ô thành phố Bạc Liêu và huyện Vĩnh Lợi (kế cận thành phố Bạc Liêu). Hầu hết các khách sạn ở khu vực thành phố Bạc Liêu đều mới tiến hành cải tạo nâng cấp và xây dựng mới, nhưng nhìn chung hệ thống khách sạn ở Bạc Liêu đã đáp ứng nhu cầu về số lượng, nhưng quy mô còn nhỏ, chưa chú ý về mặt cảnh quan, kiến trúc để đảm bảo tính địa phương nằm trong bản sắc dân tộc và những nét đặc sắc về sinh thái của vùng, chưa gắn được giữa nhu cầu lưu trú với các nhu cầu về giải trí cho du khách. Chất lượng phục vụ ở các cơ sở lưu trú mức trung bình, chưa đáp ứng tốt được yêu cầu của khách.

Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 60 cơ sở nhà trọ, với 716 phòng nghỉ, có 372 phòng máy lạnh. Trong đó thành phố Bạc Liêu 28 cơ sở, huyện Vĩnh Lợi 10 cơ sở, thị xã Giá Rai 12 cơ sở, huyện Đông Hải 6 cơ sở, huyện Phước Long 4 cơ sở. Giá phòng khách sạn bình quân: loại phòng nội địa: 250.000 đồng - 600.000 đồng/đêm, giá phòng nhà trọ từ 70.000 đồng - 200.000 đồng/đêm.

* Hệ thống nhà hàng ăn uống

Toàn tỉnh hiện có 50 nhà hàng. Bao gồm 6 nhà hàng trong khách sạn và 44 nhà hàng độc lập, với tổng sức chứa 8.500 ghế. Trong đó: Công ty cổ phần

Du lịch Bạc Liêu quản lý 3 nhà hàng với tổng sức chứa 1.500 khách, Khu du lịch sinh thái Hồ Nam với sức chứa 3.000 khách, nhà khách Tỉnh ủy quản lý 2 nhà hàng với sức chứa 1.000 khách, các doanh nghiệp tư nhân quản lý 20 nhà hàng, với tổng sức chứa 3.000 khách. Ngoài số nhà hàng đăng ký kinh doanh theo doanh nghiệp trên, Bạc Liêu còn có mạng lưới các quán ăn uống với quy mô nhỏ từ 30-300 khách/quán, bán các món ăn với mọi giá tùy theo khả năng và nhu cầu của khách. Toàn tỉnh hiện có 120 hộ loại này.

Những năm qua, việc kinh doanh nhà hàng ăn uống chủ yếu là tập trung trên địa bàn thành phố Bạc Liêu, các nhà hàng này phục vụ tiệc cưới, liên hoan, sinh nhật, hội nghị và kết hợp với kinh doanh du lịch. Nhìn chung, các nhà hàng ở Bạc Liêu đã cơ bản đáp ứng được “nhóm hàng ăn uống” trong kinh doanh du lịch, các món ăn uống tương đối phong phú, hấp dẫn, có nhiều món ăn đặc sản của tỉnh. Nhưng bên cạnh đó ngành du lịch chưa chú ý đến khu vực vùng ven dọc theo tuyến quốc lộ 1A, chưa đầu tư cơ sở vật chất tại đây, nên chưa đáp ứng được một lượng khách đi ngang qua địa bàn của tỉnh. Do đó, cần xây dựng thêm một số nhà hàng có trang thiết bị tốt dọc theo tuyến quốc lộ 1A, để phục vụ khách tham quan du lịch.

* Lực lượng lao động và trình độ chuyên môn trong ngành du lịch

Du lịch là một ngành kinh tế đòi hỏi có sự giao tiếp rộng và trực tiếp với khách hàng. Do đó, vấn đề quan trọng là cán bộ nhân viên trong ngành cần có trình độ nghiệp vụ, phong cách và thái độ giao tiếp tốt. Đặc biệt là lực lượng hướng dẫn viên du lịch, lễ tân nhà hàng khách sạn, bảo vệ… là những người đem đến cho khách hàng những dịch vụ chất lượng cao, những tình cảm tốt đẹp nhất.

Tổng số lao động trực tiếp trong toàn ngành du lịch năm 2018 là

9.361.000 lao động, trong đó đại học chiếm 12 %, trung cấp: 13 %, sơ cấp: 39%, chưa qua trường lớp đào tạo là 36%. Theo tiêu chuẩn của tổ chức du lịch thế giới cứ 1 lao động trực tiếp trong du lịch sẽ có 2,2 lao động gián tiếp. Trong thời gian qua, một số nhân viên trong ngành được đào tạo và đào tạo lại các khóa huấn luyện về nghiệp vụ hướng dẫn du lịch, lễ tân, thợ bếp, phục vụ bàn, buồng… Ngành Du lịch cũng thường xuyên tổ chức các khóa học cho các cán bộ quản lý các đơn vị nhà hàng, khách sạn, du lịch, nhằm giúp cán bộ tiếp cận luồng tri thức mới, công nghệ phục vụ khách hàng. Do đó, trình độ cán bộ công nhân viên đã được nâng lên. Nhưng nhìn chung, vẫn chưa đáp ứng được cả về mặt số lượng và chất lượng theo tiêu chuẩn của ngành đề ra.

* Thực trạng phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Bạc Liêu

Du lịch văn hóa của Bạc Liêu có thể được coi là thế mạnh so với các địa phương trong khu vực ĐBSCL với những tài nguyên du lịch nhân văn độc đáo. Thời gian qua đã được đầu tư thành các sản phẩm du lịch mang tính đặc thù cao, có sức cạnh tranh trên thị trường, với một số sản phẩm du lịch như: Các giá trị văn hóa từ Dạ cổ hoài lang và nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ, các giá trị văn hóa lịch sử gắn liền với giai thoại về Công tử Bạc Liêu, Không gian văn hóa gắn với đời sống thực tế thể hiện sự giao thoa văn hóa của 3 dân tộc Kinh - Khmer – Hoa, Hệ thống di tích lịch sử văn hóa, Du lịch Lễ hội, Văn hóa ẩm thực.

Bên cạnh đó còn có du lịch sinh thái tham quan hệ thống các vườn chim, vườn cò, Du lịch Vườn nhãn Bạc Liêu, du lịch gắn với dải rừng ngập mặn và sinh thái nông ngư nghiệp, du lịch vườn, du lịch kết hợp với điện gió. Tuy nhiên, thực trạng hiện nay khu vực này chưa được đầu tư đồng bộ để phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng như lợi thế vốn có. Hiện chỉ mới được đầu tư hình thành một số khu, điểm tham quan, du lịch như: Khu Du lịch Nhà Mát

- thành phố Bạc Liêu, Khu vực Điện gió Bạc Liêu; Khu Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu (Chủ yếu nhà tham quan mô hình nuôi tôm công nghệ cao của Công ty Việt Úc); Cửa biển Gành Hào; Khu vực Lăng cá Ông Gành Hào (hay còn gọi là Lăng Ông Nam Hải).

* Thực trạng công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, liên kết phát triển du

lịch

Về tổ chức bộ máy thực hiện công tác quảng bá, xúc tiến du lịch: đã

thành lập Trung tâm Thông tin Xúc tiến Đầu tư - Thương mại và Du lịch tỉnh Bạc Liêu, trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (trên cơ sở chia tách Trung tâm Xúc tiến Đầu tư - Thương mại và Du lịch tỉnh Bạc Liêu) là cơ quan đảm nhiệm chức năng thông tin, xúc tiến trong lĩnh vực du lịch trên toàn tỉnh, khai thác và sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng: như Đài Phát thanh và Truyền hình Bạc Liêu, Báo Bạc Liêu, Tạp chí Văn học Nghệ thuật Bạc Liêu và các báo, đài trung ương, khu vực để tuyên truyền, quảng bá về tiềm năng du lịch của tỉnh. Cụ thể, đã xây dựng hơn 22 ấn phẩm tuyên truyền và giới thiệu về du lịch Bạc Liêu, như: Bộ quy tắc ứng xử trong hoạt động du lịch, Sách hướng dẫn du lịch Bạc Liêu, Bản đồ du lịch Bạc Liêu, sách Công tử Bạc Liêu, Bản Dạ cổ hoài lang , đĩa DVD quảng bá du lịch (Ai về xứ Bạc quê tôi và đĩa DVD tuyển tập giới thiệu những ca khúc về Bạc Liêu)…

Tổ chức các sự kiện văn hóa thể thao gắn với quảng bá, xúc tiến du lịch: Thường xuyên đăng cai các giải thể thao quốc gia và khu vực góp phần không

nhỏ trong việc quảng bá, xúc tiến cho du lịch Bạc Liêu cũng như tạo ra một hướng phát triển sản phẩm mới.

Tham gia các hoạt động quảng bá tuyên truyền: Thường xuyên tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao và du lịch do các Bộ Ngành trung ương và các địa phương tổ chức

* Liên kết phát triển du lịch

Hàng năm đều tổ chức các đoàn xúc tiến du lịch với các địa phương trong nước, nhất là các địa phương có Du lịch phát triển mạnh, tiến tới xúc tiến du lịch ngoài nước khi có điều kiện; thường xuyên liên hệ chặt chẽ với Hiệp hội du lịch ĐBSCL để tranh thủ sự hỗ trợ liên kết phát triển du lịch khu vực đã phối hợp với Hiệp hội Du lịch ĐBSCL tổ chức thành công Hội thảo quảng bá - xúc tiến - đầu tư du lịch tỉnh Bạc Liêu.

Tỉnh đã ký kết hợp tác phát triển du lịch 34 tỉnh, thành phố gồm: Các tỉnh khu vực ĐBSCL; thành phố Hồ Chí Minh; thành phố Hà Nội, các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Thuận, Thừa Thiên Huế; Ninh Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Bình Phước, Tây Ninh, Quảng Nam, Ninh Thuận, Lâm Đồng, Phú Thọ, Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa…

2.9 GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU

Goffi (2017) cho rằng, theo xu thế phát triển của xã hội, khi đời sống của người dân ngày một nâng cao, thì nhu cầu đi du lịch của du khách ngày càng nhiều; du khách muốn đến những nơi an toàn, tham quan những khu di tích lịch sử, khám phá những nền văn hóa, những khu du lịch sinh thái, những điểm tham quan du lịch; muốn hòa mình với thiên nhiên, để tận hưởng cuộc sống trong lành (Dwyer & Kim, 2003). Đặc biệt Armenski Tanja & cộng sự (2011) chỉ ra rằng có những du khách muốn chinh phục những danh lam thắng cảnh nổi tiếng, những vùng đất mới lạ, hấp dẫn. Nắm bắt được nhu cầu của du khách, những người làm marketing luôn tìm kiếm, chào mời những du khách để tổ chức các tour tham quan du lịch. Khi người làm marketing điểm đến thúc đẩy chương trình xúc tiến du lịch thì sẽ làm tăng nhu cầu đi du lịch của du khách.

- Giả thuyết H1: Nhân tố marketing điểm đến có tác động cùng chiều đến nhu cầu khách du lịch.

Baidal, Sanchez & Rebello (2013) cho rằng các điểm đến du lich phải luôn tìm cách phát triển sản phẩm mới. Theo đánh giá của du khách, phát triển sản phẩm du lịch có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch. Bên cạnh đó, Ritchie & Crouch (2003) nhận định, nâng cao chất lượng dịch vụ để có sản

Xem tất cả 311 trang.

Ngày đăng: 29/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí