những nguồn lực thông thường nhưng lại có khả năng đặc biệt mà các đối thủ không có để kết hợp, sử dụng các nguồn lực này theo một cách thực độc đáo nào đó và thu được lợi nhuận cao. Mặt khác, doanh nghiệp có thể có những nguồn lực độc đáo nhưng chỉ có khả năng thông thường thì lợi thế cạnh tranh cũng mờ nhạt và kém bền vững. Lợi thế cạnh tranh sẽ mạnh nhất nếu doanh nghiệp vừa có các nguồn lực độc đáo, khó sao chép và có giá trị, vừa có khả năng đặc biệt để khai thác nhằm tạo ra các sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Cách tiếp cận theo nguồn lực có thể giải thích những lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp xuất phát từ việc sở hữu các nguồn lực hữu hình, dễ sao chép (như một dây chuyền công nghệ hiện đại, máy móc thiết bị tiên tiến) thì lợi thế chỉ tồn tại nhất thời, vì các đối thủ cạnh tranh có thể dễ dàng tìm cách sở hữu nguồn lực giống như của doanh nghiệp. Mặt khác, nếu doanh nghiệp xây dựng lợi thế cạnh tranh dựa vào những nguồn lực vô hình (như uy tín thương hiệu, nghệ thuật quản lý…) thì lợi thế sẽ có xu hướng lâu bền hơn, các đối thủ khó sao chép hơn. Điều này đã được chứng minh trong thực tế nhiều doanh nghiệp khi thay đổi người lãnh đạo đã biến doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, trì trệ, thậm chí có nguy cơ phá sản, trở thành doanh nghiệp năng động, hiệu quả.
II. NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1. Các yếu tố môi trường vĩ mô
1.1. Yếu tố kinh tế.
Các yếu tố kinh tế có ảnh hưởng rất lớn và tổng hợp đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì các yếu tố kinh tế thì rất phong phú và đa dạng nên sau đây chúng ta chỉ đi sâu phân tích một số yếu tố kinh tế chính có ảnh hưởng lớn nhất đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế: Nếu tốc độ này cao sẽ làm phát sinh thêm các nhu cầu mới do thu nhập của người lao động tăng lên và dẫn đến khả năng thanh toán đối với các hàng hoá và dịch vụ cũng tăng lên. Đây là cơ hội lớn để các doanh nghiệp hình thành, mở rộng sản xuất và phát triển. Nhưng đồng thời với cơ
hội này thì cũng có những mối đe doạ mới, đó là xuất hiện thêm nhiều đối thủ cạnh tranh, chi phí và tiền lương sẽ tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng công ty viễn thông quân đội - Viettel trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế - 1
- Các Chỉ Tiêu Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Cơ Hội Và Thách Thức Đối Với Doanh Nghiệp Khi Tham Gia Hội Nhập Kinh Tế Quốc Tế.
- Quá Trình Hội Nhập Khu Vực Và Quốc Tế Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
- Tỷ lệ lạm phát: Lạm phát có thể gây xáo trộn nền kinh tế làm cho sự tăng trưởng kinh tế chậm lại, tỉ lệ lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trở nên không lường trước được. Nếu lạm phát liên tục, các hoạt động đầu tư của doanh nghiệp trở thành công việc hoàn toàn may rủi, làm cho tương lai kinh doanh trở nên rất khó đoán. Sự bất trắc này khiến các doanh nghiệp dè dặt khi rót tiền vào đầu tư. Do đó, lạm phát cao luôn là nguy cơ đối với các doanh nghiệp.
- Tỷ lệ lãi suất: Tỷ lệ lãi suất có tầm quan trọng rất lớn khi người tiêu dùng thường xuyên vay tiền để thanh toán các khoản mua bán hàng hoá như: nhà ở, ôtô, trang thiết bị sản xuất… được bán theo phương thức trả chậm hay trả góp. Đối với những doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này thì giảm lãi suất là một cơ hội để mở rộng sản xuất kinh doanh và ngược lại lãi suất tăng là mối đe dọa cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tỷ lệ lãi suất còn quyết định mức chi phí về vốn của doanh nghiệp (mức chi phí này luôn là nhân tố chủ yếu khi quyết định tính khả thi của chiến lược). Nếu một doanh nghiệp muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh bằng nguồn vốn vay, quyết định vay vốn sẽ chỉ đem lại thành công lớn cho doanh nghiệp khi tỷ lệ lãi suất thấp và ít biến động. Ngược lại sẽ là thất bại khi các dự đoán đưa ra khả năng tăng mạnh lãi suất.
- Tỷ giá hối đoái và giá trị của đồng tiền trong nước: Yếu tố này có tác động nhanh chóng và sâu sắc đối với từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng nhất là trong điều kiện kinh tế mở. Nếu đồng nội tệ lên giá, các doanh nghiệp trong nước sẽ giảm sức cạnh tranh ở thị trường nước ngoài, vì khi đó giá bán của hàng hóa tính bằng đồng ngoại tệ sẽ cao hơn các đối thủ cạnh tranh. Hơn nữa, khi đồng nội tệ lên giá sẽ khuyến khích nhập khẩu, vì giá hàng nhập khẩu giảm, và như vậy sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước sẽ bị giảm ngay trên thị trường trong nước. Ngược lại, khi giá trị đồng tiền trong nước thấp hơn so với đồng tiền ngoại tệ thì giá cả hàng hoá trong nước sẽ rẻ hơn tương đối so với hàng nước ngoài,
sẽ làm giảm sức ép từ các doanh nghiệp nước ngoài và tạo nhiều cơ hội để tăng sản phẩm xuất khẩu. Tuy nhiên nó cũng là mối đe dọa đối với những doanh nghiệp sử dụng phần lớn nguyên vật liệu là ngoại nhập.
- Quan hệ giao lưu quốc tế: Những thay đổi về môi trường quốc tế có thể tạo ra cả cơ hội và nguy cơ cho việc mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước của một doanh nghiệp. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì mở rộng giao lưu quốc tế mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh ngày càng mạnh hơn ở thị trường trong nước.
Như vậy, có rất nhiều vấn đề trong yếu tố kinh tế ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghịêp. Có những yếu tố là nguy cơ, có những yếu tố là cơ hội, có những yếu tố là cơ hội đối với doanh nghiệp này nhưng lại là nguy cơ đối với doanh nghiệp khác. Ngoài những yếu tố nêu trên, còn một số yếu tố kinh tế khác cần phải kể đến là: tỷ lệ thất nghiệp, chính sách tài chính, tiền tệ, thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người…
1.2. Yếu tố công nghệ
Nhóm yếu tố này có ý nghĩa quyết định đến môi trường cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Sự phát triển của khoa học công nghệ làm xuất hiện nhiều lĩnh vực kinh doanh mới, hoàn thiện hơn công nghệ sản xuất hiện có, đặc biệt là trong lĩnh vực điện tử, viễn thông, tin học, xây dựng, công nghệ sinh học và công nghiệp nói chung. Khoa học công nghệ tác động đến chi phí cá biệt của doanh nghiệp, qua đó tạo nên sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung. Đối với những nước chậm và đang phát triển, giá và chất lượng có ý nghĩa ngang nhau trong cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thế giới hiện nay đã chuyển từ cạnh tranh về giá sang cạnh tranh về chất lượng, cạnh tranh giữa các sản phẩm và dịch vụ có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Chính vì vậy, việc ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh là tiền đề để các doanh nghiệp ổn định và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Các doanh nghiệp thường phải dành số vốn nhất định cho nghiên cứu, ứng dụng và phát triển công nghệ để hạn chế ảnh hưởng do sự thay đổi của môi trường khoa học công nghệ gây ra. Đồng thời các doanh nghiệp có thể dựa vào các
nguồn vốn mua các phát minh, sáng chế, áp dụng ngay công nghệ mới để vượt lên trước các đối thủ cạnh tranh. Khi nghiên cứu về yếu tố công nghệ ta cần phải chú ý tới chi phí cho nghiên cứu và phát triển, sở hữu trí tuệ, bảo vệ bản quyền và chính sách của nhà nước về công nghệ.
1.3. Yếu tố chính trị và pháp luật
Một thể chế chính trị, luật pháp rõ ràng, rộng mở và ổn định sẽ là cơ sở đảm bảo sự thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp khi tham gia cạnh tranh và cạnh tranh có hiệu quả. Chẳng hạn, các luật thuế có ảnh hưởng rất lớn đến điều kiện cạnh tranh, đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần trên mọi lĩnh vực. Chính sách của Nhà nước về xuất nhập khẩu cũng sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước. Các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế phải tuân theo các quy định của Chính phủ. Những quy định này có thể là cơ hội hoặc thách thức với các doanh nghiệp. Chính vì vậy các doanh nghiệp cần phải hiểu rõ những tiến trình ra quyết định của địa phương hoặc đất nước nơi mà doanh nghiệp thực hiện các hoạt động kinh doanh. Có như vậy, họ mới thực sự chủ động trước sự thay đổi của môi trường chính trị và pháp luật.
1.4. Yếu tố môi trường văn hoá, xã hội, dân số
Khi thị hiếu của người tiêu dùng thay đổi hoặc khi trình độ dân trí lên cao thì doanh nghiệp sẽ hoạt động thế nào? Những nguy cơ nào đe dọa, những cơ hội nào có thể nắm bắt? Đây là nhóm yếu tố quan trọng tạo lập nên nhân cách và lối sống của người tiêu dùng, đồng thời cũng là cơ sở để cho các nhà quản lý lựa chọn và điều chỉnh các quyết định kinh doanh. Các yếu tố này thường tiến triển chậm nên đôi khi thường khó nhận biết. Cùng với sự phát triển kinh tế, sự biến động về các yếu tố xã hội ngày càng có tác động mạnh hơn đến hoạt động của các doanh nghiệp như: tỷ lệ sinh đẻ, sự lão hoá dân số, quy mô của gia đình… Một ví dụ cụ thể như phong trào nâng cao sức khoẻ sẽ tạo ra cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm đồ uống không có chất làm ngọt hay chiết xuất từ hoa quả. Đồng thời nó lại cũng là mối đe dọa đối với các doanh nghiệp sản xuất thuốc lá, rượu, bia vì
sản phẩm của các doanh nghiệp này có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tiêu dùng.
1.5. Xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế.
Cũng giống như các yếu tố khác, xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế cũng có tác động hai mặt đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xu hướng toàn cầu hoá mở ra rất nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng đưa đến cho doanh nghiệp không ít nguy cơ và mối đe dọa. Toàn cầu hoá sẽ giúp mở rộng thị trường hoạt động của doanh nghiệp, xoá bỏ các rào cản kinh tế, giúp doanh nghiệp tiếp thu được những tiến bộ khoa học công nghệ một cách nhanh chóng nhưng đồng thời nó cũng tạo ra áp lực cạnh tranh mạnh mẽ hơn do sức ép từ các đối thủ tiềm ẩn cùng ngành ngày càng tăng, và sức ép của các doanh nghiệp nước ngoài thâm nhập vào thị trường nội địa cũng tăng. Chính vì vậy, các doanh nghiệp trong nước phải nhận thức rõ toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế là một xu thế không thể đảo ngược. Họ buộc phải nâng cao sức cạnh tranh, phải nhanh chóng nắm lấy cơ hội do quá trình này tạo ra nhưng đồng thời phải có biện pháp để đẩy lùi và hạn chế nguy cơ, thách thức.
2. Các yếu tố môi trường kinh doanh trong ngành
Các nhân tố này tác động trực tiếp đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, và vì vậy ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngành kinh doanh là ngành hoạt động trong đó bao gồm các doanh nghiệp cùng tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể thay thế lẫn nhau nhằm đáp ứng cùng một nhu cầu căn bản nào đó của người tiêu dùng. Michael Porter, trong tác phẩm “Lợi thế cạnh tranh” (1985) và “Chiến lược cạnh tranh” (1980) (Trường Quản trị kinh doanh Harvard) đã đưa ra những vấn đề cốt lõi nhất để giúp các nhà quản lý phân tích môi trường ngành. Lập luận của Porter là mỗi tác động ngày càng lớn mạnh của những lực tác động có thể coi là một sự đe dọa khi mà nó làm giảm lợi nhuận. Một tác động cạnh tranh yếu có thể được coi là cơ hội khi nó cho phép doanh nghiệp chiếm được lợi nhuận nhiều hơn. Mô hình 5 áp lực cạnh tranh được thể hiện cụ thể dưới sơ đồ sau:
Hình 1.1: Các lực lượng điều khiển cuộc cạnh tranh trong ngành
Sự đe doạ của những đối thủ tiềm ẩn
Sức ép của người cung ứng
Cạnh tranh của các đối thủ đang hoạt động trong ngành
Sức ép của khách hàng
Sự đe doạ của các sản phẩm thay thế
(Nguồn: Chiến lược cạnh tranh của M. Porter (năm 1996), Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội.)
2.1. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành
Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp hoạt động trong ngành là yếu tố quan trọng tạo ra cơ hội hoặc mối đe doạ cho các doanh nghiệp. Nếu sự cạnh tranh này là
yếu, các doanh nghiệp sẽ có cơ hội để nâng giá, mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận cao hơn và nhiều hơn. Nếu sự cạnh tranh này là gay gắt sẽ dẫn tới sự cạnh tranh quyết liệt về giá cả, các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh để chiếm lĩnh thị phần càng nhiều càng tốt. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành thường chịu sự tác động tổng hợp của 3 yếu tố: cơ cấu ngành, mức độ cầu và những trở ngại ra khỏi ngành.
- Cơ cấu ngànhlà sự phân bố về số lượng và quy mô của các doanh nghiệp trong ngành. Có thể phân làm 2 loại cơ cấu chính là ngành phân tán và ngành tập trung (mức độ phân tán hay tập trung của các ngành là không giống nhau). Đặc trưng của ngành phân tán là: các doanh nghiệp nhỏ bé, không có sức mạnh chi phối thị trường và thường phải chấp nhận mức giá của thị trường. Khi đó mức lợi nhuận phụ thuộc vào khả năng giảm chi phí, nhưng khả năng này lại bị hạn chế do quy mô của các doanh nghiệp nhỏ, sản phẩm của các doanh nghiệp này thường phải chịu tỷ lệ lớn hơn chi phí về Marketing hoặc chi phí nghiên cứu và phát triển để tạo ra sự khác biệt hoá về sản phẩm. Trong khi đó, đặc trưng của ngành tập trung là các doanh nghiệp hoạt động phụ thuộc vào nhau. Điều này có nghĩa là hoạt động cạnh tranh của doanh nghiệp này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các doanh nghiệp khác trong ngành. Mối đe dọa lớn với các doanh nghiệp trong ngành tập trung là cạnh tranh bằng giá nên họ thường có xu hướng cạnh tranh về chất lượng hoặc mẫu mã và tránh né tối đa các cuộc chiến tranh về giá cả.
- Mức độ cầu: Tăng cầu sẽ tạo cơ hội cho việc mở rộng sản xuất, làm giảm áp lực cạnh tranh vì tăng cầu là tăng sức mua của người tiêu dùng hiện tại, làm cho doanh nghiệp có thể tăng doanh thu mà không làm ảnh hưởng đến thị trường của các doanh nghiệp khác. Ngược lại, cầu giảm sẽ làm cho mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp mạnh mẽ hơn. Sự biến động của mức độ cầu phụ thuộc vào sự phát triển của ngành.
- Những trở ngại ra khỏi ngành: Những trở ngại này sẽ là mối đe dọa khi cầu đang có xu hướng giảm. Nếu trở ngại này khó vượt qua sẽ buộc các doanh nghiệp phải ở lại ngành mặc dù hoạt động kinh doanh không hứa hẹn gì tốt đẹp và nó sẽ
làm cho cạnh tranh trở nên gay gắt và quyết liệt hơn. Một số trở ngại chủ yếu là: máy móc thiết bị khó có thể sử dụng vào ngành khác nên muốn ra khỏi ngành doanh nghiệp buộc phải bán toàn bộ tài sản này, chi phí cố định lớn, sự gắn bó về tình cảm đối với ngành…
2.2. Khả năng cạnh tranh của đối thủ tiềm ẩn
Đối thủ tiềm ẩn là những đối thủ mới tham gia vào ngành hoặc hiện không ở trong ngành nhưng có khả năng nhảy vào hoạt động kinh doanh trong ngành. Đối thủ mới tham gia vào ngành có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp do họ đưa vào khai thác các năng lực sản xuất mới với mong muốn giành được một phần thị trường. Do vậy, những doanh nghiệp đang hoạt động tìm mọi cách để hạn chế các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn nhảy vào lĩnh vực kinh doanh của họ. Doanh nghiệp phải biết được đối thủ nào mới xuất hiện. Nó có bị cản trở xâm nhập thị trường từ phía các đối thủ khác không? Có thể làm gì để cản trở đối thủ này? Cường độ cạnh tranh đặc trưng bởi số lượng đối thủ cạnh tranh và tỷ trọng đối thủ ngang sức chiếm bao nhiêu trong số đó? Các đối thủ ngang sức có những điểm nào mạnh hơn, điểm nào yếu hơn? Đánh giá chung bằng hệ thống điểm thì doanh nghiệp đứng vị trí thứ mấy? Làm gì để vươn lên vị trí trội hơn? Một loạt các câu hỏi trên, doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ và trả lời chi tiết nếu muốn giành được lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu về trở ngại đối với những đối thủ tiềm ẩn khi muốn xâm nhập vào một ngành, nhà kinh tế học Joe Bain đã xác định 3 trở ngại chủ yếu là:
- Sự ưa chuộng sản phẩm: Đó chính là sự ưa thích của người mua đối với sản phẩm của các doanh nghiệp hiện đang hoạt động. Sự ưa chuộng này làm giảm bớt sự thâm nhập vào ngành của các đối thủ tiềm ẩn do để phá vỡ được “lòng trung thành” này là khó khăn và tốn kém.
- Các ưu thế về chi phí thấp: Những lợi thế về chi phí thường bắt nguồn từ phương pháp sản xuất tốt, sự quản lý hiệu quả đầu vào sản xuất, có nguồn vốn kinh doanh ổn định với lãi suất thấp…