Kỳ là quốc gia rộng lớn, mỗi bang đều có luật pháp riêng. Bên cạnh đó, hệ thống các cửa hàng, siêu thị của các tập đoàn kinh doanh, phân phối hàng dệt may lớn của Hoa Kỳ thực sự quá mạnh và đã phủ kín đất nước này.
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam qua việc mở rộng thị phần hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ, trong thời gian tới đòi hỏi các doanh nghiệp phải giải quyết tốt những vấn đề sau:
Thực hiện đa dạng hoá các kênh phân phối hàng dệt may trên thị trường Hoa Kỳ, tích cực duy trì, củng cố và phát triển mối quan hệ thương mại sẵn có với những nhà nhập khẩu và những tập đoàn có hệ thống phân phối lớn tại Hoa Kỳ. Cần chú trọng khai thác tốt mạng lưới phân phối của các đối tác Hoa Kỳ đang đầu tư liên doanh tại Việt Nam và mạng lưới của các nước khác liên doanh với doanh nghiệp Việt Nam để sản xuất hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Nếu hàng dệt may Việt Nam được đưa vào những kênh phân phối này thì không chỉ phục vụ nhu cầu thị trường Hoa Kỳ, mà còn phục vụ cho nhiều thị trường khác trong khu vực và trên thế giới thông qua hệ thống các cửa hàng, siêu thị của những kênh phân phối này. Điều quan trọng là sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ khi các kênh phân phối mở rộng, tạo ra sự ảnh hưởng nhất định đối với các đối thủ cạnh tranh và khách hàng Hoa Kỳ. Ngoài ra, thực hiện tốt giải pháp này sẽ làm giảm ảnh hưởng tiêu cực từ phương pháp sản xuất và xuất khẩu truyền thống của các doanh nghiệp Việt Nam, qua đó hàng dệt may Việt Nam có thể mở rộng thị trường phần, tăng kim ngạch xuất khẩu.
Phát triển các chi nhánh của doanh nghiệp không chỉ là nơi giao dịch, trưng bày quảng cáo sản phẩm, mà còn phải là bán trực tiếp sản phẩm, doanh nghiệp cần từng bước bán hàng qua Catalog, qua Internet bằng việc bán hàng trực tuyến và gửi hàng qua bưu điện tới tận tay người tiêu dùng Hoa Kỳ. Vận dụng phương thức bán ký gửi hoặc trả chậm đối với các cửa hàng bán buôn, bán lẻ và siêu thị lớn để dần xây dựng, phát triển mạng lưới phân phối sản phẩm trực tiếp của riêng mình tại thị trường Hoa Kỳ.
Cần xem xét và lựa chọn những doanh nghiệp Việt kiều cùng liên doanh, liên kết sản xuất và phân phối, hoặc làm đại lý phân phối để xây dựng những kênh
phân phối tại những bang có nhiều Việt Kiều sinh sống, bởi lẽ với số lượng hơn 2 triệu Việt kiều, mỗi người chỉ dành 1/3 số tiền mua sắm một năm để mua sản phẩm Việt Nam thì cũng đem lại cho ngành dệt may Việt Nam một nguồn doanh thu lớn. Hơn nữa, với tâm lý dân tộc thì người Việt kiều sẽ quan tâm đến những sản phẩm dệt may Việt Nam hơn và không gì bằng một Việt kiều tặng sản phẩm dệt may Việt Nam như lụa hay tơ tằm cho những người bạn của mình (đa chủng tộc, màu da) trong những dịp sinh nhật lễ hội và ngược lại. Đây cũng là một giải pháp hữu ích không chỉ đối với việc mở rộng thị phần mà còn góp phần tăng doanh thu bán hàng và quảng cáo cho thương hiệu hàng dệt may Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ.
1.3. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá mang tầm vóc quốc gia, nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mở rộng thị phần của mình trên thị trường Hoa Kỳ và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam, hoạt động xúc tiến thương mại là không thể thiếu được. Hoạt động thương mại cần được thực hiện đồng bộ giữa các hoạt động như nghiên cứu thị trường, quảng cáo, khuyến mại, tham gia các hội chợ triển lãm, bán hàng trực tiếp và quan hệ công chúng.
Các doanh nghiệp cần áp dụng một số biện pháp hỗ trợ kinh doanh nhằm giới thiệu doanh nghiệp và sản phẩm của doanh nghiệp với người tiêu dùng và đối tác nhập khẩu Hoa Kỳ:
Cần chú trọng việc sử dụng phương pháp tiếp thị là thuê chuyên gia, nhân viên tiếp thị tại Hoa Kỳ dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng mà họ ký được. Mặc khác cần tận dụng tối đa đội ngũ Việt Kiều tại các bang trên lãnh thổ Hoa Kỳ tham gia cố vấn, tiếp thị quảng cáo sản phẩm. Bởi vì Việt Kiều hiểu rõ các yếu tố môi trường của thị trường Hoa Kỳ và sở thích đặc trưng của từng đối tượng người tiêu dùng.
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Độ Của Đội Ngũ Công Nhân Trong Các Doanh Nghiệp Dệt May Việt Nam
- Tăng Trưởng Kim Ngạch Xuất Khẩu Của Việt Nam Với Hoa Kỳ Từ 1995- 2008 33
- Các Chỉ Tiêu Cụ Thể Trong Chương Trình Sản Xuất Vải Dệt Phục Vụ Xuất Khẩu Đến Năm 2015. 34
- Đáp Ứng Những Tiêu Chuẩn Chất Lượng Của Hoa Kỳ Nhằm Hoàn Thiện Hàng Dệt May Xuất Khẩu
- Kiến Nghị Đối Với Chính Phủ Và Các Bộ, Ngành Liên Quan
- Những Nội Dung Chính Của Hiệp Định Dệt May Việt Nam – Hoa Kỳ.
Xem toàn bộ 148 trang tài liệu này.
Cử chuyên gia tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các công ty, các nhà nhập khẩu hàng dệt may Hoa Kỳ. Để làm được điều này, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu về từng đối tác và hệ thống phân phối của họ thông qua phòng thương mại, thương vụ, các đại diện
thương mại Việt Nam tại các Hoa Kỳ... và cần có một đội ngũ, chuyên tiếp thị giỏi nghiệp vụ và giàu kinh nghiệm.
2. Giải pháp nhằm hạ giá thành sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ
Như đã phân tích ở trên, hiện nay, giá bán nhiều mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối cao so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ. Giá bán cao là do chi phí trong sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện ở mức cao và bất hợp lý. Giá bán cao là một trong những nguyên nhân quan trọng, làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Vì vậy, hiện nay trong điều kiện hàng dệt may Việt Nam đang giảm ưu thế về giá nhân công nên các doanh nghiệp cần có các biên pháp để tăng sức cạnh tranh về giá sản phẩm của mình bằng các biện pháp:
2.1. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam
Như đã phân tích ở trên, lao động Việt Nam tuy nhiều nhưng chủ yếu là lao động phổ thông, chưa qua đào tạo cơ bản về nghề nghiệp nên hầu hết các doanh nghiệp phải tổ chức đào tạo lại cho đội ngũ công nhân của mình, dẫn đến chi phí cho một lao động của Việt Nam cao hơn so với Trung Quốc, Inđônêxia, Malaysia. Nguồn nhân lực của Việt Nam còn yếu, năng suất lao động chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước trong khu vực ASEAN. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài, khả năng sử dụng thiết bị của công nhân ngành dệt may Việt Nam chỉ đạt hiệu suất 70% trong khi đó ở các nước trong khu vực là trên 90%. Điều đó dẫn đến giá thành sản xuất cao và cũng làm giảm sức cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ. Do đó, việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực để có khả năng sử dụng kỹ thuật hiện đại trong sản xuất là yếu tố quan trọng nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phối hợp với các cơ quan, các Bộ, ngành có liên quan để triển khai Chương trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam theo một chương trình đào tạo quốc gia ở các trường đại
học và hệ cao đẳng, trường dạy nghề, những chương trình này được nghiên cứu và đào tạo chuyên sâu như :
Mở các lớp đào tạo cán bộ quản lý kinh tế- kỹ thuật, cán bộ pháp chế, cán bộ chuyên ngành dệt may, cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề của các dự án dệt, nhuộm trọng điểm.
Mở các lớp đàp tạo về thiết kế và phân tích vải, kỹ năng quản lý sản xuất (gồm các kỹ năng thiết kế, làm mẫu, bán hàng, kiến thức về tiêu chuẩn nguyên liệu, sản phẩm tiêu chuẩn môi trường và lao động).
Yếu tố này mang tính lâu dài, thường xuyên phù hợp với chiến lược phát ngành dệt may dài hạn của Việt Nam nên đòi hỏi phải có một chương trình đào tạo rõ ràng và khoa học.
Có chính sách tiếp nhận và chuyển giao những chương trình dạy nghề, thường xuyên mời các chuyên gia nước ngoài trực tiếp đào tạo tại các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may. Liên kết với các tổ chức quốc tế để cử cán bộ, học sinh tham gia các khoá đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ pháp chế, cán bộ kỹ thuật, cán bộ bán hàng, công nhân có tay nghề cao tại các cơ sở đào tạo nước ngoài. Hình thức đào tạo này sẽ mang lại cho người lao động những kiến thức quản lý, cách thức sản xuất, công nghệ sản xuất mới tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng.
Kết hợp việc đào tạo dài hạn với đào tạo ngắn hạn, kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại chỗ, kết hợp giữa đào tạo trong nước với việc của cán bộ ra nước ngoài để đào tạo. Xây dựng trường Đại học Dệt May và Thời trang để tạo cơ sở vật chất cho việc triển khai các lớp đào tạo.
Các doanh nghiệp cũng nên mạnh dạn cắt giảm số lao động dư thừa hoặc điều chuyển sang bộ phận phù hợp, buộc người lao động phải nâng cao trình độ và tăng năng suất lao động, nếu muốn tiếp tục được bố trí làm việc. Việc sắp xếp, tổ chức lao động và bổ nhiệm chức vụ cần căn cứ vào năng lực, hiệu quả công việc và trình độ người lao động đặc biệt là đội ngũ quản lý trực tiếp doanh nghiệp để tăng cường công tác quản lý điều hành một cách hợp lý và hiệu quả hơn với sự ứng dụng triệt để các phương thức quản lý khoa học.
2.2. Nâng cao tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm dệt may Việt Nam
Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng là hầu hết các loại chi phí cho một đơn vị sản phẩm của ta đều cao hơn so với các nước trong khu vực là do chúng ta phải nhập khẩu chủ yếu nguyên vật liệu đầu vào cho ngành dệt may. Trong khi ngành may của Việt Nam có tốc độ phát triển tương đối cao thì lĩnh vực dệt lại phát triển rất chậm. Điều này góp phần lý giải tại sao các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn phải chấp nhận nhập tới 80% nguyên liệu đầu vào và cũng chính vì thiếu công nghiệp phụ trợ nên ngành dệt may Việt Nam gần như phụ thuộc vào thị trường thế giới.
Vì vậy nên chúng ta cần phải nâng cao tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm dệt may từ 30% hiện nay lên 50% vào năm 2010 và 60% vào năm 2015; hướng đến mục tiêu đạt 12 tỷ USD xuất khẩu dệt may trong năm 2010 và 18 tỷ USD vào năm 2015 bằng cách tập trung xây dựng và phát triển vùng sản xuất nguyên phụ liệu nhằm đảm bảo cung cấp cho ngành dệt may Việt Nam nguồn nguyên liệu ổn định và chất lượng với giá rẻ, giảm thiểu tối đa lượng nguyên phụ liệu nhập khẩu. “ Dệt mà không mạnh thì may mãi mãi chỉ đi làm thuê”.
Xây dựng chương trình phát triển cây bông, trong đó ưu tiên xây dựng các vùng bông có tưới tại các tỉnh tiềm năng. Thực hiện chính sách khuyến nông đối với các trang trại trồng bông để tăng tỷ lệ xơ bông trong ngành dệt và đảm bảo đủ số lượng vải cung cấp cho ngành may xuất khẩu là 500 triệu m2/ năm vào năm 2010. Thông qua liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước trong và ngoài nước xây dựng các dự án đầu tư sản xuất xơ nhân tạo, các loại sợi có chất lượng cao và có tính năng mới phù hợp với xu thế của thị trường.
Tiếp tục đầu tư đồng bộ hoá sản xuất tại khu công nghiệp Phố Nối, triển khai xây dựng cụm công nghiệp dệt may hiện đại tại Đà Nẵng, Nhơn Trạch, sớm quy hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở vệ tinh sản xuất phụ liệu, bao bì cho ngành dệt may để giảm lệ thuộc nhập khẩu, tăng năng suất lao động và giảm giá thành sản phẩm dệt may Việt Nam.
Nhanh chóng triển khai sự án xây dựng trung tâm kinh doanh nguyên phụ liệu dệt may tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh để kịp thời cung cấp nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp trong ngành.
Đồng thời thu hút đầu tư nước ngoài và huy động các nguồn vốn trong nước đầu tư sản xuất các sản phẩm hoá dầu (xơ, sợi, hoá chất, thuốc nhuộm...) phục vụ cho dệt may để chủ động về nguyên liệu, nâng cao tỷ lệ nội địa hoá và giá trị gia tăng trong sản xuất sản phẩm dệt may.
2.3. Đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử trong kinh doanh.
Thương mại điện tử là một phương thức hoạt động thương mại mà mọi quan hệ giao dịch đều được thực hiện thông qua mạng Internet và các thiết bị viễn thông. Dù được hình thành và hoạt động mạnh chỉ mới hơn một thập kỷ nhưng thương mại điện tử đã thể hiện được vai trò và tác dụng vô cùng to lớn. Đây là một phương thức hoạt động tiết kiệm, hiệu quả và thuận tiện. Nó góp phần giảm đáng kể chi phí của cả người bán và người mua trong giao dịch thương mại.
Đối với người bán, thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất, kinh doanh, cả nhân lực và vật lực. Với sự thuận lợi của cửa hàng ảo trên Internet, các sản phẩm dệt may được trưng bày không hề tốn diện tích, không gian, do đó doanh nghiệp dệt may có thể giới thiệu và kinh doanh đa dạng các mặt hàng với số lượng, chủng loại khác nhau. Đối với người mua, nhờ sự trợ giúp của các công cụ tìm kiếm trên Internet, có thể tìm thấy tất cả các mặt hàng cần thiết từ tất cả các nhà cung cấp trên khắp thế giới với giá cả và chất lượng phù hợp nhất.
Với việc áp dụng thương mại điện tử, năng suất của những người tham gia hoạt động giao dịch thương mại sẽ tăng lên, chi phí sẽ giảm đi, làm cho các sản phẩm dệt may được bán với giá thấp hơn, góp phần tăng năng lực cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường.
Tại một quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, thương mại điện tử được ứng dụng mạnh mẽ để cạnh tranh sản phẩm thông qua các hoạt động mua, bán hàng và quảng cáo giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thông tin thị trường, thanh toán và thậm chí là việc ký kết hợp đồng và tham gia thị trường ảo. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam mới ứng dụng một phần rất nhỏ của thương mại điện tử nhằm giới thiệu sản phẩm. Những ứng dụng của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hạn chế về thông tin, hình thức, chất lượng thông tin, mức độ cập nhật. Vì vậy các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phải khai thác tối đa thương mại điện tử vào kinh doanh.
Thứ nhất, ứng dụng có hiệu quả hệ thống cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho thương mại điện tử bao gồm đưa vào sử dụng các ứng dụng mới nhất trong thương mại điện tử nhằm hỗ trợ giao dịch; sử dụng hệ thống thanh toán điện tử thông qua liên kết với các ngân hàng và đảm bảo an ninh, an toàn trong giao dịch điện tử.
Thứ hai, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thương mại điện tử, hàng ngày thường xuyên cập nhật các thông tin về sản phẩm.
Tóm lại, việc ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam có vai trò vô cùng quan trọng, nó góp phần to lớn trong việc giảm chi phí kinh doanh và đem lại sức cạnh tranh cao cho hàng dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dệt may Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhất là sau năm 2005 khi ATC hết hiệu lực và hết năm 2008 khi đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam trên thị trường Hoa Kỳ được dỡ bỏ hạn ngạch, thị phần mỗi nước phụ thuộc phần lớn vào khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Đối với hàng dệt may, các biện pháp cạnh tranh phi giá cả trước hết là cạnh tranh về chất lượng hàng hoá là một trong các yếu tố quyết định trong cạnh tranh. Hoa Kỳ là thị trường “khó tính”, đòi hỏi cao về chất lượng sản phẩm. Người tiêu dùng ở đây đòi hỏi cao về chất lượng và thương hiệu sản phẩm được đặc biệt coi trọng. Có thể xác định rằng, những chủng loại sản phẩm dệt may của Việt Nam được người tiêu dùng Hoa Kỳ ưa chuộng là đại bộ
phận các Cat bị Hoa Kỳ áp hạn ngạch và một số Cat không bị áp hạn ngạch đặc biệt là các Cat nóng như: 340/341; 338/339; 340/638; 347/348;359 và 647/64837 được tiêu thụ mạnh tại thị trường Hoa Kỳ. Đây chính là những chủng loại mà Việt Nam có khả năng cạnh tranh mạnh và mở rộng thị phần tại Hoa Kỳ, đặc biệt là sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Tuy nhiên ở những chủng loại này thì nhiều nước cũng có thế mạnh, nên các doanh nghiệp Việt Nam cần phải
luôn tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm. Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm bao gồm:
37 Tham khảo phụ lục 3
3.1. Đổi mới công nghệ, trang thiết bị, máy móc kỹ thuật trong các doanh nghịêp dệt may Việt Nam
Việc đổi mới công nghệ, thiết bị máy móc trong các doanh nghiệp dệt may nhằm khai thác tối đa năng lực sản xuất của công nghệ, giảm thiểu lượng hàng phế phẩm và phế liệu, nâng cao năng suất lao động của tất cả các bộ phận trong quy trình sản xuất, luôn đưa ra thị trường những sản phẩm có chất lượng cao. Đây là một nhân tố quan trọng trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế tri thức coi trọng hàm lượng chất xám và tính sáng tạo kết tinh trong sản phẩm và dĩ nhiên nguồn tạo nên giá trị khác biệt từ lợi thế lao động dồi dào và giá nhân công rẻ ngày càng dần mất lợi thế cạnh tranh mà thay vào đó là yếu tố khai thác tối đa năng lực sản xuất của công nghệ.
Hàng năm các doanh nghiệp cần tập trung đẩy mạnh công tác đầu tư theo chiều sâu một cách có hiệu quả, đồng bộ, đảm bảo mức độ đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại chiếm 20-35% tổng số mỗi năm để nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm. Cần phải thu hút vốn đầu tư, tranh thủ các nguồn tài trợ, vay ưu đãi của các tổ chức tài chính quốc tế để đầu tư mở rộng, phát triển quy mô sản xuất, đổi mới các loại máy dệt, máy may hay các loại máy thiết kế sản phẩm, dây chuyền tiên tiến hiện đại.
Cần nhanh chóng nhập khẩu những công nghệ, thiết bị hiện đại cho các công đoạn như: in, nhuộm, hoàn tất sản phẩm để từ đó sản xuất ra những loại vải cao cấp đáp ứng cho nhu cầu của ngành may. Đây là vấn đề quan trọng trong việc nâng cao sức cạnh tranh về mặt chất lượng cho các sản phẩm dệt may của Việt Nam tại thị trường Hoa Kỳ. Hơn nữa, việc Việt Nam sản xuất được những loại vải cao cấp, có nhiều tổ hợp sản xuất lớn, công nghệ hiện đại, đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế sẽ thúc đẩy các hãng lớn của Hoa Kỳ với những thương hiệu nổi tiếng đến đặt hàng với số lượng lớn và lâu dài theo hình thức mua FOB.
Một kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường Hoa Kỳ là trong giai đoạn dệt may Việt Nam chưa có tên tuổi trên thị trường Hoa Kỳ thì cách tốt nhất là mua bằng sáng chế, bản quyền nhãn hiệu của các công ty nước ngoài và liên kết sản xuất với 2 - 4 thương hiệu nước ngoài như Trung Quốc đã làm để sản xuất ra những sản phẩm của họ với giá rẻ, qua đó nâng cao sức