Các Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp

năng lực sản xuất của một doanh nghiệp, bởi nếu lượng giá trị lớn nhưng phải huy động nguồn lao động cũng lớn, dẫn đến năng suất lao động thấp thì khả năng sản xuất vẫn không được đánh giá cao.

Muốn tăng năng suất lao động, tất yếu phải tiến hành song song tăng sản lượng sản xuất và giảm lượng lao động. Mục tiêu hàng đầu của doanh nghiệp là lợi nhuận. Muốn có được lợi nhuận thì phải tạo ra các sản phẩm thường xuyên thỏa mãn yêu cầu khách hàng, tức là phải đảm bảo chất lượng, phải giảm mọi chi phí tới mức thấp nhất, thường xuyên cải tiến đổi mới, tạo cho sản phẩm những khác biệt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Để tăng lợi nhuận thì việc tăng năng suất lao động là tất yếu, sử dụng ít lao động lại tạo được giá trị sản xuất lớn sẽ khiến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp tăng lên.

5. Chi phí sản xuất kinh doanh

Lợi nhuận là phần thu được khi đem doanh thu trừ đi chi phí sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể thấy để có lợi nhuận cao thì tất yếu phải giảm chi phí. Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều loại chi phí, vì vậy cũng có nhiều cách để giảm chi phí: tỉ lệ phế phẩm phải thấp để không tốn chi phí cho sửa chữa kiểm tra, bồi thường khi khách hàng khiếu nại về sản phẩm; sử dụng hiệu quả các nguồn lực, tiến hành quản lý theo phương pháp hiện đại; tăng cường công tác đào tạo để có đội ngũ cán bộ, nhân viên, công nhân có trình độ; áp dụng công nghệ hiện đại, tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng; hạch toán chi phí rõ ràng,…

Để giảm chi phí doanh nghiệp phải phối hợp đồng bộ quản lý nhiều khâu, nhiều biện pháp mới đạt hiệu quả tối đa.

6. Hoạt động nghiên cứu và phát triển

Nghiên cứu và triển khai vừa là việc nghiên cứu tiến bộ khoa học kỹ thuật của thế giới để ứng dụng vào hoạt động của tổ chức mình, vừa là nghiên cứu sáng tạo cái mới. Sáng tạo đó bao gồm sáng tạo công nghệ mới, sản phẩm mới, tạo ra kết cấu mới, tổ chức mới, phương pháp quản lý mới, khai thác thị trường mới… Đây là nhân tố cực kỳ quan trọng, quyết định năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Hiện nay ở các nước phát triển, hoạt động này diễn ra rất sôi động, tốc độ đổi mới nhanh làm cho tuổi thọ của công nghệ, máy móc thiết bị giảm xuống nhanh chóng,

đặc biệt là trong công nghệ thông tin, công nghệ tin học và điện tử, công nghệ tự động hóa. Để hoạt động nghiên cứu triển khai tiến hành tốt thì doanh nghiệp không thể thiếu công tác đào tạo. Đào tạo trước hết là phải nâng cao nhận thức cho mọi người về hội nhập, cạnh tranh,...sau nữa là nâng cao hiểu biết về công nghệ, kỹ thuật sản xuất, nâng cao tay nghề làm ra sản phẩm có chất lượng và năng suất ngày càng cao.

7. Quản lý môi trường

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Quan điểm hiện đại về phát triển ngày nay mà mọi tổ chức hướng tới là sự phát triển bền vững. Một doanh nghiệp hàng năm có doanh thu tăng, lợi nhuận lớn mà môi trường sinh thái suy giảm thì đó là sự phát triển không bền vững. Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên, các yếu tố vật chất bao quanh con người, có ảnh hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại và phát triển của con người. Có thể khẳng định, môi trường có tầm quan trọng đặc biệt đối với con người, động thực vật, đối với sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước. Bởi vậy doanh nghiệp phải có đủ các biện pháp để bảo vệ môi trường. Nếu doanh nghiệp nào trong quá trình sản xuất kinh doanh làm suy thoái môi trường và cảnh quan, sản phẩm của doanh nghiệp làm ra không đủ tiêu chuẩn về môi trường thì doanh nghiệp đó sẽ không có uy tín với cộng đồng dân cư, và hệ quả tất yếu là người tiêu dùng sẽ không tiêu thụ sản phẩm của họ. Như vậy doanh nghiệp không có sức cạnh tranh với đối thủ của mình. Hiện nay khái niệm năng suất xanh do APO đưa ra năm 1994 đã trở nên rất phổ biến. Đó là sự nâng cao năng suất kết hợp với bảo vệ môi trường, giảm ô nhiễm đến mức thấp nhất. Năng suất xanh là chìa khoá cho sự phát triển bền vững.‌

III. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP

Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: trường hợp nghiên cứu cụ thể ở công ty gang thép Thái Nguyên - 4

Hiện tại ở Việt Nam chưa có tổ chức nào đưa ra bộ tiêu chí đánh năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Phần lớn các tiêu chí được dùng hiện nay đều mang tính định tính, chưa mô hình hóa để định lượng được, dù độ chính xác của định tính cũng được chấp nhận bằng kỹ thuật chọn mẫu và xử lý dữ liệu. Nhưng nhìn chung các tiêu chí cũng đã thể hiện phần nào nội dung cốt lõi của năng lực cạnh tranh. Với phạm vi nghiên cứu của đề tài, khóa luận xin được trình bày một số tiêu chí sau:

1. Thị phần

Thị phần là chỉ số thể hiện quy mô của doanh nghiệp, cho thấy doanh nghiệp có vị thế cạnh tranh như thế nào trên thị trường. Một điều tất yếu là doanh nghiệp càng có năng lực cạnh tranh thì tiêu thụ được càng nhiều hàng hoá, doanh thu lớn và tất yếu thị phần tăng. Việc tăng thị phần và giữ vững thị phần đã có luôn là vấn đề quan tâm lớn của mỗi doanh nghiệp. Nói tới thị phần, ta thường thấy xuất hiện chỉ số thị phần tuyệt đối và tương đối, được tính theo công thức sau:


Lượng hàng hoá (hoặc doanh thu) tiêu thụ của doanh nghiệp

Thị phần tuyệt đối = x 100%

Tổng lượng hàng hoá (hoặc doanh thu)

tiêu thụ trên thị trường


Thị phần tương đối =

Thị phần tuyệt đối của doanh nghiệp

Thị phần tuyệt đối của đối thủ cạnh tranh lớn nhất (hoặc trực tiếp nhất)

x 100%



Khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp, giới chuyên môn thường căn cứ vào thị phần, đó là biểu hiện cụ thể, đáng tin, lượng hoá được về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

2. Danh tiếng, uy tín

Đây là yếu tố mang tính tổng hợp, là kết quả của các yếu tố cấu thành đã trình bày ở trên. Nếu tất cả các yếu tố đó tốt sẽ nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo dựng nên hình ảnh tốt đẹp về công ty. Danh tiếng, uy tín của doanh nghiệp được hình thành không chỉ trong chốc lát mà phải bằng cả quá trình phấn đấu lâu dài, kiên trì theo đuổi mục tiêu chiến lược đúng đắn của mình.

Một vấn đề quan trọng liên quan đến nâng cao uy tín của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp phát triển và duy trì thành công thương hiệu mạnh. Bởi vậy, các chỉ tiêu như chi phí cho hoạt động phát triển thương hiệu, mức độ nổi tiếng và được ưa chuộng của thương hiệu... so sánh với các chỉ tiêu tương ứng của đối thủ cạnh tranh có thể được sử dụng để phân tích khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.

Ngoài ra, uy tín của doanh nghiệp còn được xây đắp từ đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế xã hội. Đây là một cách xây dựng uy tín lâu dài vững chắc nhất.

Uy tín danh tiếng là tài sản vô hình của doanh nghiệp, có giá trị lớn gấp nhiều lần tài sản hữu hình. Để có thể tồn tại một cách vững chắc trên thị trường trong nước và thế giới thì doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý tới việc xây dựng, bảo vệ, khuyếch trương uy tín của mình.

Ngoài các tiêu chí trên, các nhà nghiên cứu còn sử dụng một số tiêu chí khác như các tiêu chí về hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, chất lượng sản phẩm và các quá trình sản xuất, mức độ khai thác nguồn lực, khả năng đổi mới của doanh nghiệp, khả năng đáp ứng nhu cầu khách hàng, khả năng tiếp cận và khai thác có hiệu quả các nguồn lực phục vụ quá trình kinh doanh, khả năng liên kết và hợp tác với các doanh nghiệp khác và hội nhập kinh tế...‌‌

IV. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH DOANH NGHIỆP

Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp không chỉ do các yếu tố cấu thành tác động trực tiếp mà còn chịu ảnh hưởng từ các nhân tố bên ngoài. Những yếu tố nội tại doanh nghiệp có thể kiểm soát được, nhưng các nhân tố ảnh hưởng thì nằm ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp, do Nhà nước và ngành chi phối là chính.

1. Nguồn cung ứng đầu vào

Trong thời đại của sự phân công lao động và chuyên môn hóa cao thì không một doanh nghiệp nào có thể tự lo cho mình tất cả nguồn đầu vào được, làm như vậy hiệu quả thấp hoặc là không có hiệu quả vì không phát huy hết lợi thế so sánh của mình. Để kinh doanh đạt hiệu quả cao doanh nghiệp phải tìm cho mình những người cung ứng có uy tín (giao hàng đúng hẹn, đúng chủng loại và đảm bảo yêu cầu về chất lượng...), nếu không doanh nghiệp cũng sẽ sai hẹn với khách hàng của mình, và như vậy sẽ ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.

2. Nhu cầu về sản phẩm

Điều kiện về cầu sản phẩm, hay nói cách khác chính là nhu cầu của khách hàng về sản phẩm doanh nghiệp là điều kiện cần đầu tiên cho sự tồn tại của sản

phẩm. Mỗi sản phẩm sẽ có đặc trưng riêng về nhu cầu, có thể là nhu cầu linh hoạt, nhu cầu theo mùa vụ, hay mức cầu cố định…Từ đó doanh nghiệp có định hướng đúng đắn về tình hình cầu của sản phẩm, xác định mức đa dạng hóa của sản phẩm và các dịch vụ đi kèm sản phẩm. Điều này có ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.‌‌


3. Mức độ cạnh tranh của ngành

Sản phẩm được tạo ra ngày càng nhiều, phong phú đa dạng, có chất lượng, giá cả hạ thấp do trình độ công nghệ tiên tiến làm cho năng suất tăng, chi phí giảm…Tất cả những yếu tố đó sẽ làm cho mức độ cạnh tranh trong ngành tăng cao. Khi mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt thì doanh nghiệp càng cần tích cực nâng cao sức cạnh tranh của mình để tồn tại. Hay nói cách khác, mức độ cạnh tranh chính là động lực để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh.

4. Các ngành công nghiệp phụ trợ có liên quan

Những ngành công nghiệp phụ trợ và những ngành liên quan có tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp vì những ngành này cung cấp đầu vào cho doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp ở các khu vực có sơ sở hạ tầng phát triển, trình độ dân trí cao, hệ thống giao thông, thông tin liên lạc phát triển,…cùng với các ngành phụ trợ phát triển thì sẽ phát huy được năng lực cạnh tranh cho mình.

5. Năng lực cạnh tranh quốc gia

Như đã trình bày ở phần trên, năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh doanh nghiệp có mối quan hệ khăng khít. Quốc gia có năng lực cạnh tranh tốt thì tất yếu sẽ tạo ra môi trường kinh tế xã hội phát triển, môi trường chính trị pháp luật ổn định minh bạch, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và trên thị trường quốc tế. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của quốc gia có nhiều chỉ tiêu khác nhau, song phổ biến nhất là hai chỉ tiêu: chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng và chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp. Hai chỉ tiêu này đều do WEF công bố hàng năm trong báo cáo trạnh canh toàn cầu.

Chỉ số năng lực cạnh tranh tăng trưởng (Growth Competitiveness Index-GCI) là chỉ số truyền thống đo lường cấc yếu tố vĩ mô tác động tới năng lực cạnh tranh

quốc gia dựa trên ba nhóm chỉ số cơ bản được coi là các trụ cột cho tăng trưởng nền kinh tế, đó là chỉ số về công nghệ, chỉ số thể chế công, chỉ số ổn định môi trường tăng trưởng kinh tế vĩ mô.

Chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp (Global Competitiveness Index - GCI) mới được công bố trong báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2004 - 2005. Chỉ số này được xây dựng trên cơ sở đo lường chín yếu tố có tác động lớn tới năng lực cạnh tranh quốc gia bao gồm: thể chế, hạ tầng, kinh tế vĩ mô, giáo dục cơ bản và y tế, giáo dục và đào tạo bậc cao, hiệu quả thị trường, mức độ sẵn sàng về công nghệ, trình độ kinh doanh và đổi mới.‌

Dựa vào các tiêu chí đánh giá này, WEF sẽ đưa ra bảng xếp hạng năng lực canh tranh của các quốc gia trên thế giới. Trong phạm vi đề tài này, khóa luận sử dụng chỉ số năng lực cạnh tranh tổng hợp để đánh giá năng lực cạnh tranh của Việt Nam.

V. NHỮNG NÉT CƠ BẢN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Toàn cầu hoá đã tạo ra những thay đổi rất lớn cho tất cả các lĩnh vực, từ chính trị đến kinh tế, xã hội, văn hoá. Trong đó, mạnh mẽ nhất, tác động lớn nhất là xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.

1. Lý luận chung về hội nhập kinh tế quốc tế

“Hội nhập kinh tế là quá trình nền kinh tế các quốc gia tham gia một cách chủ động, tích cực vào nền kinh tế thế giới, qua đó, nền kinh tế các quốc gia tác động lẫn nhau, bổ sung cho nhau và phụ thuộc lẫn nhau”.12

Hội nhập kinh tế quốc tế có hai nội dung chính. Một là, ký kết và tham gia các định chế và tổ chức kinh tế quốc tế, trong đó các thành viên đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với từng thành viên của các định chế, tổ chức đó. Hai là, tiến hành những cải cách ở trong nước để có thể thực hiện các quy định, cam kết quốc tế về hội nhập.

Như vậy, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế tác động đến nhiều mặt, nhiều hoạt động trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, đặc biệt là đến quan hệ thương mại quốc tế của các quốc gia. Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế cùng với tự do hóa



12 Nguyễn Quốc Việt (2003), đề tài “Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế”, Đại học Ngoại Thương, Hà Nội.

kinh tế là hai quá trình song song và hợp thành một quá trình rộng lớn hơn, đó là quá trình toàn cầu hóa, là sự định hình và phát triển nền kinh tế toàn cầu với tư cách là một chỉnh thế chung thống nhất, không có khoảng cách về kinh tế.

2. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến doanh nghiệp Việt Nam

Hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã trở thành xu thế tất yếu cho các quốc gia trên con đường phát triển của mình. Tuy mỗi quốc gia có vị thế khác nhau và mục tiêu khác nhau, trong phát triển kinh tế cũng như hội nhập nhưng nhìn chung các quốc gia đều thu được những lợi ích khi tham gia vào liên kết kinh tế quốc tế, những lợi ích chính đó là:

- Thị trường được mở rộng tới phạm vi khu vực và thế giới, nhờ đó tiềm năng kinh tế của các nước tham gia được khai thác một cách có hiệu quả. Khi đó, phúc lợi xã hội và quyền lợi của người tiêu dùng đều được nâng lên bởi các quốc gia, các doanh nghiệp đều tham gia hội nhập bằng lợi thế cạnh tranh tốt nhất và hiệu quả nhất của mình.

- Tự do hóa thương mại có nghĩa là sẽ tự do lưu chuyển các yếu tố của sản xuất như: vốn, công nghệ, lao động, trình độ quản lý tiên tiến… Vì vậy các quốc gia tham gia hội nhập sẽ có điều kiện tiếp nhận các nguồn lực này từ bên ngoài để mở rộng sản xuất, khai thác hợp lý nguồn tài nguyên trong nước.

- Liên kết kinh tế quốc tế thúc đẩy cạnh tranh trên quy mô quốc tế, tạo khả năng đạt được sự tối ưu về quy mô, về cơ cấu cho từng ngành sản xuất.

Hội nhập kinh tế có nghĩa là ranh giới hành chính bị xóa nhòa, khái niệm quốc gia trong kinh tế thế giới sẽ không còn rõ nét vì thị trường thế giới là một thể thống nhất, do vậy các doanh nghiệp sẽ là những chủ thể chịu tác động trực tiếp của xu thế này. Tác động đó được thể hiện qua những cơ hội và thách thức đến với doanh nghiệp Việt Nam.

Cơ hội của các doanh nghiệp Việt Nam khi hội nhập kinh tế quốc tế

- Mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa: Khi hội nhập tức là các nước phải tiến hành mở cửa thị trường, giảm và tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan, điều chỉnh cơ cấu kinh tế phù hợp với quá trình mở cửa tự do hóa kinh tế,… Vì thế thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp Việt Nam không chỉ bó hẹp trong

nội địa, mà đã mở rộng ra khu vực và thế giới. Doanh nghiệp Việt Nam khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, tạo dựng được thế lực trên thị trường thế giới, lại được hưởng những ưu đãi thương mại, mở đường cho sự phát triển của doanh nghiệp. Hội nhập khiến các doanh nghiệp phải thúc đẩy quá trình cơ cấu lại theo hướng có hiệu quả hơn, nâng cao hiệu quả kinh doanh, sản xuất những sản phẩm được thị trường thế giới chấp nhận.

- Thu hút vốn đầu tư và công nghệ nước ngoài: Như đã trình bày ở trên, rào cản thương mại không còn sẽ giúp dòng vốn và công nghệ tự do di chuyển từ nơi thừa đến nơi thiếu. Hiện tại các doanh nghiệp Việt Nam rất thiếu vốn và công nghệ hiện đại để phát triển, hội nhập sẽ là cơ hội để tiếp thu các nguồn lực ấy. Ngoài nguồn vốn và công nghệ hiện đại, doanh nghiệp Việt Nam còn tiếp thu được những kinh nghiệm quản lý rất quý báu và các nguồn lực khác trên thế giới để áp dụng cho doanh nghiệp của mình.

- Nâng cao tính hiệu quả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp: Trong một thị trường mở không còn sự bảo hộ của nhà nước, các doanh nghiệp chỉ có thể dựa vào chính sức lực của mình để tồn tại. Điều đó buộc các doanh nghiệp phải cơ cấu lại để phù hợp với xu hướng thế giới, phải nâng cao hiệu quả kinh doanh để đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt.

Thách thức của doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế

Cùng với những cơ hội nêu trên thì doanh nghiệp cũng phải đối phó với những thách thức khi hội nhập:

- Thách thức về năng lực cạnh tranh: Việc giảm thuế và phi thuế, sự thông thoáng về chính sách quản lý đối với các lĩnh vực đầu tư, dịch vụ,…trong quá trình hội nhập sẽ tạo sức ép rất lớn, đòi hỏi nền kinh tế và các doanh nghiệp phải có đầy đủ khả năng cạnh tranh mới có thể trụ vững và khai thác được lợi thế của hội nhập. Cần nhận thức rằng, phạm vi cạnh tranh giờ đây là ở quy mô toàn cầu vì vậy sẽ rất gay gắt, buộc tất cả các doanh nghiệp phải phấn đấu để tồn tại và phát triển.

- Thách thức về nguồn nhân lực: Đây cũng là thách thức không nhỏ với doanh nghiệp. Bởi nguồn nhân lực đang ở độ tuổi lao động có chất lượng thấp cả về chuyên môn, tác phong và kỹ thuật, thêm nữa là trình độ người quản lý còn

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 08/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí