Ở Việt Nam thì các chuyên gia lại cho rằng: “Năng lực cạnh tranh (còn gọi là sức cạnh tranh), khả năng giành được thị phần lớn trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường, kể cả khả năng giành lại một phần hay toàn bộ thị phần của đồng nghiệp“.10
Mặc dù có sự khác nhau giữa các định nghĩa trên song hàm nghĩa cơ bản là như nhau. Với phạm vi và khuôn khổ của đề tài nghiên cứu, trong khóa luận sử dụng khái niệm năng lực cạnh tranh của OECD.
Như ta biết, môi trường cạnh tranh hiện nay là môi trường cạnh tranh không hoàn hảo, tức là vừa có cạnh tranh, vừa có độc quyền, vừa cạnh tranh vừa hợp tác cả ở thị trường trong nước lẫn thị trường quốc tế. Vì vậy, việc nhận thức đúng đắn về năng lực cạnh tranh là điều vô cùng cần thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể.
2.2 Các cấp độ của năng lực cạnh tranh
Năng lực cạnh tranh có nhiều góc độ tiếp cận khác nhau dẫn đến sự phân chia năng lực cạnh tranh cũng có đôi chút khác biệt. Theo cách phân chia phổ biến nhất thì năng lực cạnh tranh bao gồm:
- Năng lực cạnh tranh cấp độ quốc gia.
- Năng lực cạnh tranh cấp độ doanh nghiệp.
- Năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ.
Ngoài ba cấp độ trên, có nhà nghiên cứu cũng đề cập đến năng lực cạnh tranh cấp ngành. Thực chất, năng lực cạnh tranh cấp ngành có mối quan hệ và chịu ảnh hưởng từ năng lực cạnh tranh cấp quốc gia và của sản phẩm tương tự như năng lực cạnh tranh doanh nghiệp nên khóa luận không đề cập đến.
Việc hiểu thế nào cho đúng về khái niệm các cấp độ năng lực cạnh tranh cũng gây ra rất nhiều tranh cãi. Song nhìn chung chúng ta có thể hiểu một cách khái quát như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: trường hợp nghiên cứu cụ thể ở công ty gang thép Thái Nguyên - 1
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế: trường hợp nghiên cứu cụ thể ở công ty gang thép Thái Nguyên - 2
- Các Tiêu Chí Đánh Giá Năng Lực Cạnh Tranh Của Doanh Nghiệp
- Khái Quát Thực Trạng Ngành Công Nghiệp Thép Việt Nam
- So Sánh Chỉ Tiêu Kỹ Thuật Của Tisco Với Thế Giới
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Năng lực cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là khả năng của sản phẩm đó tiêu thụ được nhanh trong khi có nhiều người cùng bán loại sản phẩm đó trên cùng thị trường. Hay nói cách khác, năng lực cạnh tranh của sản phẩm được đo bằng thị phần của sản phẩm đó. Năng lực cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào chất lượng,
10 Từ điển thuật ngữ kinh tế học (2000), Nxb Từ điển Bách khoa Hà Nội, tr 349, Hà Nội.
giá cả, tốc độ cung cấp, dịch vụ đi kèm, uy tín người bán, thương hiệu, quảng cáo, điều kiện mua bán,...
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là thực lực và lợi thế mà doanh nghiệp có thể huy động để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường một cách lâu dài và có ý chí nhắm thu được lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình. Để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp người ta dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau: thị phần, doanh thu, lợi nhuận, phương pháp quản lý, uy tín doanh nghiệp,... Những yếu tố đó tạo cho doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh, tạo cho doanh nghiệp khả năng triển khai các hoạt động với hiệu suất cao hơn đối thủ cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng quốc gia đó nâng cao mức sống cho người dân với tốc độ cao và bền vững, được thể hiện qua chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia. Yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia là môi trường kinh tế vĩ mô, nền tảng kinh tế vĩ mô, trình độ hoạt động của các doanh nghiệp, chất lượng môi trường kinh doanh và năng suất sản xuất quốc gia.
Từ cái nhìn khái quát về ba cấp độ của năng lực cạnh tranh ta cũng có thể nhận ra được mối quan hệ của chúng. Năng lực cạnh tranh của một quốc gia cao hay thấp là dựa phần lớn vào trình độ hoạt động của các doanh nghiệp. Theo Michael Porter, ở cấp độ quốc gia khái niệm năng lực cạnh tranh duy nhất có ý nghĩa là năng suất sản xuất quốc gia. Vì vậy muốn nâng cao năng suất liên tục thì mọi doanh nghiệp, mọi ngành nghề của nền kinh tế phải liên tục cải tiến, liên tục nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. Ngược lại, một quốc gia có năng lực cạnh tranh tức là quốc gia đó đã đảm bảo được những điều kiện tốt nhất cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: môi trường kinh doanh thuận lợi ổn định; chính sách vĩ mô rõ ràng nhất quán; kết cấu hạ tầng, lao động, khoa học và công nghệ,...đều phải đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp.
Mặt khác năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp lại được thể hiện qua năng lực cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Một doanh nghiệp có thể có nhiều mặt hàng với những năng lực cạnh tranh cao thấp khác nhau. Nhưng nếu có nhiều mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao thì tất yếu năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp cũng được nâng cao hơn nhiều. Vì khi đó doanh nghiệp có thị phần lớn trên thị trường, giành được ưu thế các đối thủ cạnh tranh.
Như vậy rõ ràng ba cấp độ của năng lực có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có quan hệ mật thiết nhưng cũng có sự độc lập tương đối, không hoàn toàn là cái này cấu thành nên cái kia. Do vậy khi nghiên cứu tìm hiểu về bất kỳ năng lực cạnh tranh ở cấp độ nào cũng không được bỏ qua mối quan hệ của nó với các cấp độ khác của năng lực cạnh tranh.
II. CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, để tồn tại và phát triển vững chắc thì doanh nghiệp cần phải có năng lực cạnh tranh. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng doanh nghiệp tạo ra được lợi thế cạnh tranh, có nghĩa là có khả năng tạo ra năng suất và chất lượng cao, chiếm lĩnh nhiều thị phần để tiêu thụ sản phẩm của mình, tạo ra thu nhập cao và phát triển bền vững. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được cấu thành từ nhiều yếu tố. Thiếu đi một vài yếu tố sẽ làm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp suy yếu.
1. Năng lực tổ chức quản lý
Có thể nói trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp là yếu tố rất quan trọng, là điều kiện đầu tiên cho sự thành công của một doanh nghiệp. Năng lực tổ chức quản lý của doanh nghiệp được thể hiện ở một số mặt như sau:
1.1. Phương pháp quản lý
Muốn tổ chức quản lý tốt trước hết doanh nghiệp phải có phương pháp quản lý hiện đại, phù hợp. Trình độ quản lý giỏi sẽ đảm bảo cho sự thành công trong kinh doanh tới 70%, 30% còn lại dành cho các yếu tố khác. Các nhà quản lý Nhật Bản đã tổng kết rằng 80% các lỗi trong sản xuất là do lỗi của quản lý. Điều đó cho thấy trình độ quản lý đóng vai trò hết sức quan trọng trong sự thành bại của doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều phương pháp quản lý hiện đại đã được các tổ chức doanh nghiệp áp dụng thành công vào quản trị sản xuất và kinh doanh từ nửa sau của thế kỷ XX. Đó là các phương pháp quản lý theo tình huống, quản lý theo tiếp cận quá
trình và tiếp cận hệ thống, quản lý theo phương pháp của quản lý chất lượng như ISO 9000 hoặc TQM…
Thực chất hoạt động quản trị doanh nghiệp ngày nay chính là hoạt động quản lý chất lượng. Nếu chất lượng quản lý kém thì chất lượng sản phẩm kém, và tất nhiên doanh nghiệp không có lợi nhuận. Do chất lượng có tầm quan trọng như vậy nên nhiều nhà kinh tế học cho rằng thế kỷ XXI là thế kỷ của chất lượng. Các tổ chức WTO, ISO rất khuyến khích các tổ chức, các doanh nghiệp trên thế giới áp dụng ISO 9000 và cao hơn là TQM.
1.2. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức hiệu quả của một doanh nghiệp phải đảm bảo được các tiêu chuẩn: gọn nhẹ, ít cấp bậc, linh hoạt, dễ thay đổi khi môi trường kinh doanh thay đổi, quyền lực được phân chia để mệnh lệnh truyền đạt được nhanh chóng, góp phần tạo ra năng suất cao. Hiện nay có ba hình thức tổ chức phổ biến là:
- Tổ chức theo cơ cấu chức năng
- Tổ chức theo phòng ban
- Tổ chức theo ma trận
Mỗi hình thức tổ chức đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng. Mỗi doanh nghiệp cần căn cứ vào đặc điểm riêng của mình để có lựa chọn thích hợp, song nhìn chung các doanh nghiệp hiện nay thường tổ chức theo ma trận, nghĩa là phối hợp nhiệm vụ kế hoạch giữa các chức năng ngang và dọc. Các phòng ban chỉ việc xem phần việc của mình trong từng ô của ma trận mà thực hiện. Việc kiểm tra, kiểm soát, đánh giá cũng căn cứ vào mức hoàn thành nhiệm vụ kế hoạch đã ghi trong ma trận.
1.3. Văn hóa doanh nghiệp
Có thể hiểu văn hóa doanh nghiệp là tổng thể truyền thống của các cấu trúc và các bí quyết kinh doanh xác lập quy tắc ứng xử nội tại, gắn bó các thành viên với nhau trong một doanh nghiệp. Cụ thể văn hóa doanh nghiệp được thể hiện ở hai mặt: mục đích kinh doanh và phương pháp kinh doanh.
Về mục đích kinh doanh thường có hai điểm chung như sau:
- Đạt hiệu quả cao, tức là lợi nhuận tối đa cho cá nhân và cho cộng đồng, là hiệu quả xã hội.
- Có tính nhân văn, thể hiện ở hai mặt là đối với con người và đối với thiên nhiên. Đối với con người tức là đáp ứng đến mức cao nhất nhu cầu của con người, là tôn trọng phẩm giá con người, không dùng thủ đoạn mánh khóe cạm bẫy trong kinh doanh. Đối với thiên nhiên là việc gắn kinh doanh với bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế.
Về phương pháp kinh doanh, tức là việc doanh nghiệp đạt tới mục đích bằng con đường và nguồn lực nào. Tuy mục đích kinh doanh là quan trọng nhưng không thể đạt mục đích bằng bất cứ giá nào, mà phải tuân theo những nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, đấy chính là văn hóa trong phương pháp kinh doanh. Những điểm chung trong phương pháp kinh doanh là:
- Tuân thủ pháp luật, đảm bảo minh bạch, công khai trong kinh doanh.
- Chú trọng khoa học quản lý, tuân theo các nguyên tắc quản lý khoa học.
- Dựa vào khoa học kỹ thuật, vận dụng công nghệ tiên tiến trong điều hành sản xuất kinh doanh.
- Chú trọng quan hệ con người, phát huy năng lực xã hội mà quan trọng là khơi dậy và phát huy tổng hợp các tiềm năng.
Có thể coi đây là những điểm chung nhất của văn hóa doanh nghiệp. Những điểm chung đó được vận dụng cụ thể trong từng thời kỳ nhất định mà có những thay đổi thích hợp theo chiều hướng khác nhau.11
2. Nguồn lực của doanh nghiệp
Một doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh tất yếu phải có trong tay những nguồn lực nhất định. Mức độ nguồn lực ấy ra sao, khả năng tận dụng thế nào chính là một trong các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
2.1. Nguồn vốn
Vốn là một nguồn lực mà doanh nghiệp cần có trước tiên, vì nếu không có vốn thì không thể thành lập doanh nghiệp, không thể tiến hành kinh doanh được.
11 Tổng hợp chủ yếu từ http://hanoi.vnn.vn/chuyen_de/ttvhdn/clbdn/bai02.asp, truy cập ngày 05/09/2007.
Một doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh là doanh nghiệp có nguồn vốn dồi dào, luôn chắc chắn huy động được vốn trong những trường hợp cần thiết. Muốn có nguồn vốn đảm bảo thì cần đa dạng hóa nguồn cung vốn, mặt khác việc đa dạng hóa nguồn vốn cũng giúp giảm phần nào rủi ro cho doanh nghiệp. Các kênh huy động vốn chủ yếu ngoài nguồn vốn tự có là: vay từ ngân hàng thương mại, thuê mua tài chính, phát hành chứng khoán, vay từ các quỹ chuyên biệt...
Một điều quan trọng không kém là việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Vấn đề này khiến nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn. Muốn sử dụng vốn tốt, trước tiên phải biết lựa chọn kênh huy động vốn phù hợp, chuẩn bị tâm lý huy động vốn, lên sẵn kế hoạch sử dụng vốn. Rất nhiều doanh nghiệp vì không hạch toán các chi phí rõ ràng, không có kế hoạch chủ động sử dụng vốn từ đầu nên nguồn vốn lớn huy động được đã không phát huy hết hiệu quả. Do vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì doanh nghiệp nhất thiết phải quan tâm đến việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn.
2.2. Nguồn nhân lực
Con người là cội nguồn của mọi sáng tạo, chính con người đã tạo ra các nguồn lực khác cho doanh nghiệp. Nhận thức được điều này nên các nhà kinh tế học vẫn luôn khẳng định nhân lực là vốn quý nhất của doanh nghiệp. Trình độ nguồn nhân lực thể hiện ở trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo, trình độ lành nghề của nhân viên, trình độ văn hóa của mọi thành viên. Trình độ nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra các sản phẩm có hàm lượng chất xám cao. Sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao sẽ bán được nhiều hơn, giá cao hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp ngày càng tăng, uy tín và doanh nghiệp nhờ thế cũng tăng theo. Với danh tiếng đó doanh nghiệp càng có điều kiện phát triển thị trường, mở rộng quy mô, góp phần thúc đẩy nền kinh tế ngày phát triển.
Thực tế cho thấy các nước phát triển đã chú trọng tới việc tri thức hóa nguồn nhân lực, phát triển khả năng sáng tạo của con người để tạo ra thế cạnh tranh, giành ưu thế trên thương trường. Và trong điều kiện môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, thì việc quan tâm tới chất lượng nguồn nhân lực là điều vô cùng cần thiết với các doanh nghiệp.
2.3. Trình độ công nghệ
Công nghệ là phương pháp, là bí mật, là công thức tạo sản phẩm. Để có năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải được trang bị bằng công nghệ hiện đại. Công nghệ hiện đại là công nghệ sử dụng ít nhân lực; thời gian tạo ra sản phẩm ngắn; tiêu hao năng lượng, nguyên liệu thấp; năng suất cao, tính linh hoạt cao, chất lượng sản phẩm tốt, không gây ô nhiễm môi trường. Sử dụng công nghệ hiện đại giúp cho doanh nghiệp tăng năng suất lao động, giảm giá thành, chất lượng sản phẩm tốt, do đó làm năng lực cạnh tranh của sản phẩm tăng.
Có một vấn đề các doanh nghiệp cũng cần để ý, đó là việc lựa chọn công nghệ thích hợp. Tức là doanh nghiệp phải dự báo được chu kỳ sống của công nghệ để có thay đổi phù hợp, tạo ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường, phải đào tạo công nhân đủ trình độ để điều khiển và kiểm soát công nghệ. Nếu không thì đôi khi có công nghệ hiện đại mà vẫn không phát huy được hiệu quả.
3. Các yếu tố liên quan đến năng lực cạnh tranh của sản phẩm
Như đã đề cập trong mối quan hệ của các cấp độ năng lực cạnh tranh ở phần trước, năng lực cạnh tranh sản phẩm là cơ sở để tạo nên năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp và quốc gia. Vì thế khi xét tới các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh doanh nghiệp ta không thể không nhắc tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm. Các yếu tố tạo nên năng lực cạnh tranh của sản phẩm bao gồm:
3.1. Chất lượng sản phẩm
Chất lượng sản phẩm là mức độ tập trung một tập hợp các đặc tính của sản phẩm làm thỏa mãn nhu cầu. Sản phẩm có nhiều tiêu chuẩn chất lượng khác nhau, nhưng nếu chỉ cần một tiêu chuẩn không đảm bảo thì không thể coi sản phẩm đó đạt chất lượng được, ở đây không có quy luật bù trừ. Chất lượng sản phẩm lại bao gồm nhiều yếu tố khác nhau, đó là: nghiên cứu sản phẩm, thiết kế sản phẩm, tạo sản phẩm, tiêu thụ sản phẩm, yếu tố con người, công nghệ sản xuất…
3.2. Giá cả
Giá cả có thể coi là yếu tố quan trọng thứ hai sau chất lượng. Trong bối cảnh hiện nay, khi khoa học kỹ thuật đã phát triển với trình độ cao thì chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp gần như tương đương nhau. Và khi đó giá cả lại là yếu tố hấp dẫn khách hàng.
Để có giá cả thấp thì doanh nghiệp phải tìm cách giảm chi phí. Chỉ có cách giảm chi phí thì doanh nghiệp mới giảm được giá bán khi chất lượng vẫn tương đương với các đối thủ mà vẫn có lợi nhuận.
3.3. Các yếu tố khác
Ngoài các yếu tố chính đã nêu ở trên thì còn có các yếu tố khác như chủng loại hàng hóa, thời gian cung cấp hàng, mạng lưới phân phối, các dịch vụ đi kèm…
Nhu cầu đối với sản phẩm bao giờ cũng rất phong phú, vì vậy việc đa dạng hóa chủng loại để đáp ứng nhu cầu là cần thiết. Việc cung cấp hàng hóa phải kịp thời nhanh chóng để giúp đối tác không bị lỡ kế hoạch, không bị mất thời cơ. Hiện nay doanh nghiệp rất coi trọng việc phát triển các dịch vụ đi kèm sản phẩm, điều đó giúp tăng thêm giá trị cho sản phẩm, thu hút khách hàng và giữ chân khách hàng tốt hơn.
4. Năng suất lao động
Năng suất lao động là một yếu tố cấu thành, đồng thời cũng là một chỉ tiêu để đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và cả trong tương lai. Năng suất lao động được hiểu là giá trị do một lao động tạo ra trên một đơn vị thời gian, thể hiện khả năng sản xuất của một doanh nghiệp. Ngoài ra, người ta có thể lấy chỉ tiêu năng suất sản xuất, tức là lượng giá trị được tạo ra trên một đơn vị thời gian. Nhưng xét về bản chất, chỉ tiêu đó vẫn chưa thể hiện rõ nét