Nguyên nhân chủ quan:
- Công tác thẩm định dự án và quyết định cho vay trong trường hợp đối với Công ty CP Xây dựng BB là chưa chính xác. Ngân hàng chưa đánh giá đúng dự án kinh doanh của Công ty, chưa lường trước được rủi ro xẩy ra cho thị trường bất động sản và chưa có được biện phát nhằm thu hồi lại vốn khi rủi ro xẩy ra.
- Cụ thể là bộ phận thẩm định khi cho vay đã không đánh giá được đúng thực trạng kinh doanh của Công ty CP Xây dựng BB, khi xem xét phương án cho vay thì chỉ dựa vào báo cáo dự toán của Công ty mà không tính đến tính khả thi của dự án trong tương lai. Đánh giá cao khả năng cạnh tranh và tiêu thụ sản phẩm của Công ty CP Xây dựng BB trên thị trưòng.
- Cán bộ tín dụng sau khi cho vay chưa giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng nguồn vốn giải ngân và thu hồi vốn của Công ty CP Xây dựng BB so với phương án kinh doanh ban đầu.
- Sau khi rủi ro tín dụng đã xẩy ra, nguy cơ khách hàng không trả được nợ khi đến hạn là rất lớn thì Ngân hàng NN&PTNT HN vẫn chưa có được biện pháp thu hồi nợ khác từ Công ty CP Xây dựng BB ngoài tài sản thế chấp.
Như vậy từ một ví dụ rủi ro tín dụng của Công ty CP Xây dựng BB đã cho thấy những điểm yếu còn tồn tại trong quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng NN&PTNT HN. Để có thể nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng, tránh những trường hợp nợ xấu như Công ty CP Xây dựng BB nói riêng và các khách hàng khác nói chung thì Ngân hàng NN&PTNT HN cần chú trọng hơn nữa về quy trình quản lý, thẩm định tín dụng trong quá trình cho vay, nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng nhằm đánh giá, kiểm soát, lường trước nhưng rủi ro có thể xẩy ra trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Để có thể làm được điều này thì trước hết quy trình cho vay phải đảm bảo được các nguyên tắc hạn chế rủi ro (như nguyên tắc phân tách chức năng, nguyên tắc “hai tay bốn mắt”, nguyên tắc tuân thủ hạn mức...) ở mọi khâu trong ngân hàng.
Quy trình cho vay đang được áp dụng tại Ngân hàng được xây dựng khá khoa học và chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện từ khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định hồ sơ, quyết định cho vay và kiểm tra sử dụng vốn, thu hồi vốn sau khi cho vay vẫn còn lỏng lẻo. Để quy trình này đạt được hiệu quả thì cần phải thực hiện chặt chẽ ở các giai đoạn sau:
- Giai đoạn kiểm tra hồ sơ thông tin khách hàng
Việc kiểm tra các thông tin liên quan đến hồ sơ pháp lý, năng lực tài chính,
năng lực quản lý, uy tín tín dụng chủ yếu dựa trêờn hai nguồn thông tin là từ khách hàng và từ thông tin nội bộ trên mạng của ngân hàng. Nhân viên tín dụng cần phải tận dụng toàn bộ nguồn thông tin này để có được nhận định chính xác về khách hàng vay.
Về nguồn thông tin do chính khách hàng cung cấp có thể tính chính xác không cao, đặc biệt trong trường hợp khách hàng cố ý làm sai, để tránh gặp phải rủi ro thông tin, ngân hàng cần có sự kết hợp với một số cơ quan ban ngành có đủ chức năng để đối chiếu thông tin do khách hàng cung cấp (ví dụ: cơ quan thuế,…) và áp dụng phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ doanh nghiệp, khách hàng vay và một số đối tượng có liên quan, đồng thời sử dụng triệt để nguồn thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) để nắm bắt tính xác thực của thông tin.
- Giai đoạn thẩm định phương án vay vốn và khả năng trả nợ
Khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần xem xét tính xác thực của phần vốn tự có của khách hàng tham gia vào phương án, dự án xin vay. Yêu cầu khách hàng chứng minh nguồn cụ thể của vốn tự có này vì đây là một vấn đề rất quan trọng ảnh hưởng đến việc thực hiện phương án, dự án. Vì nếu vốn tự có tham gia vào càng lớn thì doanh nghiệp sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn, họ sẽ thận trọng hơn trong việc đầu tư vào kế hoạch kinh doanh sắp tới. Để dự án mang lại hiệu quả và có nguồn trả nợ cho ngân hàng thì:
+ Tỷ lệ vốn tự có /vốn vay > 1
+ Lãi ròng sau thuế và khấu hao > Tổng nợ đến hạn phải trả
Ngoài ra, khi thẩm định phương án vay vốn, nhân viên tín dụng cần phải đánh giá năng lực tài chính, khả năng sản suất kinh doanh của khách hàng vay để xem xét hiệu quả vốn tín dụng. Quá trình này phải kết hợp với nguyên nhân khách hàng vay, đánh giá được các phương diện: rủi ro do ngành, rủi ro do kinh doanh,…và nên được thực hiện dựa trên các chỉ tiêu như: khả năng sinh lời, khả năng khai thác và sử dụng tài sản, tình hình sử dụng nguồn vốn và khả năng thanh toán.
Khi đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng vay vốn, cán bộ tín dụng cần phải nắm rõ nguồn trả nợ chính, tức là khả năng sinh lời của phương án xin vay và các nguồn thu khác mà khách hàng cam kết trả nợ cho ngân hàng khi nguồn trả nợ chính có sự cố, đồng thời xem xét kèm theo những rủi ro tiềm tàng có thể mà bước đầu tín dụng chưa thẩm định được nhằm điều chỉnh thời hạn cho vay và thu hồi nợ hợp lý. Có thể nói trong bất kỳ trường hợp nào thì nguồn vốn tự có phải được coi là
nguồn lý tưởng để trả nợ. Cán bộ tín dụng phải cố gắng tránh quan điểm cho vay hoàn toàn dựa vào tài sản đảm bảo trực tiếp hoặc của bên thứ ba bảo lãnh vì khi xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay thì quá trình này diễn ra lâu dài, mất nhiều thời gian và thiệt thòi luôn nghiêng về phía người cho vay. Đồng thời, ngân hàng nên yêu cầu doanh nghiệp vay phải có số liệu báo cáo hàng tháng, hàng quý về tình hình hoạt động kinh doanh với những nguồn vốn vay của ngân hàng trong thời hạn đang vay vốn nhằm phát hiện những thay đổi có chiều hướng xấu của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngoài ra, ngân hàng cũng có thể tăng cường thuê đội ngũ thẩm định chuyên nghiệp trong những phương án xin vay lớn, mang tính kỹ thuật sâu để có thể phân tích chính xác tính khả thi trước khi quyết định cho vay.
- Giai đoạn quyết định cho vay
Trước khi cán bộ tín dụng đề xuất cho vay và lãnh đạo ngân hàng quyết định cho vay thì cần phải tập hợp một số thông tin về thị trường, chính sách kinh tế,… để có cái nhìn hệ thống về rủi ro có thể xảy ra trong một bối cảnh cụ thể trước khi ra quyết định. Việc ra quyết định cho vay cần phải có sự kiểm tra kỹ lưỡng thay vì kiểm tra sơ sài và quyết định theo đề nghị của cán bộ tín dụng thì hiệu quả phòng ngừa rủi ro sẽ cao hơn.
- Giai đoạn kiểm tra sử dụng vốn sau khi cho vay
Một khoản vay có hiệu quả sẽ phụ thuộc không ít vào việc kiểm tra tín dụng. Ngay cả đối với các khoản vay tốt nhất cũng cần có một số kiểm tra nhất định, định kỳ để đảm bảo nó đang hoạt động theo dự kiến, tình trạng của khoản vay không xấu đi. Vì vậy, giai đoạn này mang ý nghĩa rất quan trọng trong việc phòng ngừa rủi ro và giảm thiểu rủi ro trước khi nó xảy ra, gây hậu quả nặng nề với phần vốn vay.
Tuy nhiên, hiện nay công tác này vẫn còn được thực hiện một cách đối phó cho đủ thủ tục quy định nên hiệu quả kiểm tra không cao. Các vấn đề cần phải xem xét sau khi cho vay:
+ Nắm vững và theo dõi sát sao tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng xem việc sử dụng vốn vay có đúng mục đích hay không? Nêu rõ nguyên nhân gây ra sai lệch.
+ Mô tả thực tế sử dụng vốn vay so với các chứng từ đó xuất trình hoặc dự
kiến ban đầu.
+ Ngân hàng phải quản lý được nguồn doanh thu của khách hàng. Trong hợp đồng tín dụng phải thỏa thuận được với khách hàng việc chuyển doanh thu và sử
dụng các dịch vụ tại Ngân hàng, qua đó vừa kiểm soát được nguồn trả nợ, vừa tăng
thêm phí dịch vụ thu được.
+ So sánh thực tế dự án so với dự kiến ban đầu: tình hình các yếu tố đầu vào, thị trường tiêu thụ, tình hình cơ sở vật chất, sự hiện hữu và tình trạng của tài sản thế chấp/cầm cố tại thời điểm kiểm tra.
+ Những thay đổi trong hoạt động kinh doanh, bộ máy quản lý, tình hình tài chính của khách hàng (khách hàng doanh nghiệp) hoặc sự thay đổi về tình trạng gia đình và nguồn thu nhập (khách hàng cá nhân). Đánh giá ảnh hưởng của các thay đổi này đến khả năng trả nợ.
Việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn sau khi cho vay cần phải được thực hiện một cách nghiệm ngặt và cán bộ tín dụng cần phải thực hiện tốt giai đoạn này trong quy trình để có thể cảm nhận được môi trường, hiệu quả công việc của doanh nghiệp. Nếu có các dấu hiệu bất thường nào của khách hàng ảnh hưởng đến khả năng thanh toán khoản vay thì cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm báo cáo kịp thời cho lãnh đạo để có hướng giải quyết kịp thời và thích hợp.
Ngoài việc trực tiếp kiểm tra tình hình sử dụng vốn vay, nên có một cơ chế kiểm tra chéo trong giai đoạn này để bảo đảm tính khách quan trong kiểm tra, nếu có điều kiện, có thể thành lập một bộ phận kiểm tra sử dụng vốn chuyên biệt cho những món vay lớn, có tầm quan trọng đặc biệt để nhận diện rủi ro ngay từ khi mới phát sinh.
Ngoài ra, khi có sự thay đổi về nhân sự trong việc chuyển giao hồ sơ từ cán bộ tín dụng này sang cán bộ tín dụng khác thì cần phải quy định cụ thể trách nhiệm bàn giao, nội dung bàn giao. Có thể quy định việc lập sổ nhật ký tín dụng về các lần phát vay, thu nợ, biến động tài sản đảm bảo, tình hình kinh doanh và tài chính để đảm bảo sự liên tục, thuận tiện trong việc theo dõi và chuyển giao hồ sơ giữa các cán bộ tín dụng.
Việc giảm sát và kiểm tra sau vay là một đòi hỏi cấp thiết được đặt ra cho NH nói chung và cả các cán bộ tín dụng nói riêng. Trong công tác này ngân hàng cần chủ động hơn, điều đó giúp ngân hàng sớm phát hiện các dấu hiệu rủi ro. Không chỉ dừng lại ở các báo cáo tài chính, các cán bộ tín dụng cần chủ động xuống tận cơ sở để kiểm tra, việc kiểm tra phải phù hợp với ngành nghề kinh doanh, nên tiến hành mỗi quý một lần. Theo dõi tình hình thị trường, ngành hàng sản xuất kinh doanh của khách hàng có ảnh đến vốn vay của ngân hàng. Đánh giá lại tài sản thế chấp theo giá hiện hành, nếu giảm so với giá thế chấp cần phải bổ sung tài sản thế chấp khác hoặc dư nợ giảm tương ứng. Đối với các khoản vay lớn cần có một bộ phận chuyên trách đánh giá. Chi nhánh cần
quy định việc cán bộ tín dụng xuống cơ sở khách hàng để thu nợ khi tới kỳ hạn. Quy định này thể hiện sự quan tâm theo dõi sát sao của ngân hàng đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng nâng cao ý thức trách nhiệm với khoản vay.
Như vậy, với những biện pháp giám sát chặt chẽ, thẩm định chính xác từ khi khách hàng lập hồ sơ vay vốn đến theo dõi giải ngân và thu hồi nợ trong quá trình cho vay theo đúng quy trình đồng thời nâng cao được năng lực của cán bộ tín dụng thì Ngân hàng NN&PTNT HN có thể sẽ tránh được những rủi ro đáng tiếc và nâng cao chất lượng trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
3.2.2 Hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin đánh giá khách hàng
Trong ngành tài chính ngân hàng hiện nay thì thông tin là yếu tố có vai trò quyết định sự thành bại của các trung gian tài chính. Chính vì vậy mà nâng cao và hoàn thiện hệ thống thông tin tín dụng là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với NH.
Khó khăn lớn nhất phải kể ra đối với chi nhánh là khâu thu thập thông tin liên quan đến quá trình thẩm định như: thông tin về khách hàng, thông tin đánh giá giá trị tài sản đảm bảo, thông tin về tiềm năng phát triển của dự án…Thông tin tín dụng là khởi đầu cho hoạt động kinh tế và một quyết định đầu tư tín dụng. Nếu hệ thống thông tin tín dụng không có đầy đủ dữ liệu hoặc không chính xác thì việc phân tích khách hàng của ngân hàng sẽ gặp khó khăn và không thực sự hoàn chỉnh. Trong thực tế hiện nay, công tác tín dụng tại chi nhánh hoạt động đang thụ động trong việc cập nhật thông tin từ đối tượng cho vay, nguồn gốc thông tin chủ yếu dựa vào hồ sơ cho vay, hồ sơ dự án…có chăng nguồn thông tin ở ngân hàng cũng chỉ là tổng quan không được chi tiết cụ thể nên tính chính xác, khoa học và khách quan còn nhiều hạn chế. Do vậy nguồn thông tin thu thập được để đánh giá và đưa ra quyết định cho vay là thiếu chính xác gây nhiều rủi ro và giảm lợi nhuận cho bản thân ngân hàng. Bên cạnh đó, khách hàng phải gặp nhiều khó khăn và bất lợi khi cán bộ tín dụng đánh giá thấp doanh nghiệp. Để hoàn thiện và nâng cấp hệ thống thông tin cần:
+ Đầu tiên nên lập các ngân hàng dữ liệu, tức là tập hợp các thông tin có được theo từng ngăn riêng để dễ dàng quản lý sử dụng, mỗi ngăn chứa đựng những thông tin cùng tính chất và đặc điểm. Trong những năm tiếp sau nên sớm thiết lập hệ thống thông tin có sử dụng các chương trình phần mềm tin học đủ mạnh như: IPCAS, và thiết lập hệ thống bảo mật thông tin tránh trường hợp bị thất thoát, dò rỉ thông tin.
+ Tiếp theo cần đa dạng hoá các nguồn thông tin, các nguồn thông tin phải được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, cụ thể như:
+ Từ hồ sơ vay vốn của khách hàng, cần phải có xác nhận của các kiểm toán các
cấp tuỳ loại hình khách hàng vay vốn đồng thời được bổ sung, cập nhật thường xuyên.
+ Điều tra qua việc thâm nhập thực tế, mua tin từ các tổ chức như trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN hoặc thuê chuyên gia giúp tư vấn thẩm định về các chỉ tiêu thông số kỹ thuật. Ngoài ra còn có thể thu thập tin tức từ các đối tác của các khách hàng hay các ngân hàng bạn.
+ Thành lập tổ thông tin tín dụng, để bổ sung thêm một kênh thông tin giúp
chi nhánh đối phó với vấn đề thông tin không cân xứng nhằm hạn chế rủi ro.
+ NH cũng nên chủ động xây dựng một mạng lưới thông tin liên quan tới giá trị thị trường của các tài sản đảm bảo như theo dõi diễn biến giá bất động sản, thiết bị máy móc…
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống chấm điểm tín dụng
Hệ thống chấm điểm tín dụng của ngân hàng đó được xây dựng khá chi tiết và chính xác. Tuy vậy các cán bộ tín dụng vẫn gặp khó khăn khi áp dụng do rất nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chính là số liệu do các kháỏch hàng cung cấp là không chính xác. Các số liệu trong báo cáo tài chính rất khó kiểm soát, chính vì vậy các cán bộ tín dụng không coi trọng vấn đề chấm điểm tín dụng lắm bởi quá trình cho vay chủ yếu dựa vào quá trình thẩm định, sự quan sát đánh giáỏ của các cán bộ tín dụng. Vì thực trạng hệ thống chấm điểm tín dụng như vậy nên nó không thể là công cụ duy nhất để xét duyệt khoản vay mà chỉ là công cụ hỗ trợ cho việc ra quyết định cuối cùng.
Như vậy đối với chi nhánh cần có một mô hình đánh giá tổng hợp, bao gồm những chỉ tiêu thể hiện trong sổ sách và các chỉ tiêu bên ngoài như điều kiện làm việc, trình độ học vấn của công nhân viên,…Việc thu thập thông tin chính xác từ khách hàng cũng là vấn đề được đặt ra, nó đòi hỏi sự nỗ lực từ phía ngân hàng, sự hợp tác của khách hàng, và việc giám sát, chuẩn hoá các báo cáo tài chính của doanh nghiệp của Nhà nước, kiểm tra quy trách nhiệm.
Ngoài ra NN&PTNT HN cần tiến hành chấm điểm xếp hạng tín dụng cho toàn bộ khách hàng doanh nghiệp và khách hàng cá nhân bằng các mô hình lượng hóa rủi ro thích hợp nhằm đảm bảo 100% khách hàng của NN&PTNT HN được xếp hạng tín dụng, làm cơ sở cho việc cấp tín dụng cho khách hàng. Để thực hiện được điều này, đòi hỏi NN&PTNT HN phải:
- Liên tục nâng cấp, chỉnh sửa mô hình chấm điểm xếp hạng tín dụng doanh
nghiệp cho phù hợp với yêu cầu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và tình
hình phát triển kinh tế đất nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nhanh chóng xây dựng và đưa vào áp dụng mô hình chấm điểm tín dụng đối với khách hàng cá nhân nhằm tạo thuận lợi cho khách hàng tiếp cận vốn vay ngân hàng và ngân hàng lượng hoá mức độ rủi ro chính xác hơn. Một trong những mô hình mà NN&PTNT HN có thể nghiên cứu áp dụng vào hệ thống của mình là mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng của các ngân hàng Mỹ dưới đây.
Giới thiệu mô hình điểm số tín dụng tiêu dùng
Ngày nay, nhiều ngân hàng sử dụng phương pháp cho điểm để xử lý các đơn xin vay của người tiêu dùng. Thực tế, nhiều TCTD đã sử dụng mô hình điểm số để xử lý số lượng đơn yêu cầu ngày càng gia tăng, những ngân hàng cũng sử dụng mô hình này để đánh giá những khoản tín dụng mua sắm xe hơi, trang thiết bị gia đình, mua bất động sản và kinh doanh nhỏ lẻ. Nhiều khách hàng ưa thích sự thuận tiện và nhanh chóng khi những yêu cầu tín dụng của họ được xử lý bằng hệ thống cho điểm tự động thông qua hệ thống máy tính nối mạng, trên cơ sở dữ liệu của khách hàng, trong vòng vài phút ngân hàng có thể thông báo kết quả tín dụng cho khách hàng.
Các yếu tố quan trọng liên quan đến khách hàng sử dụng trong mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng bao gồm: hệ số tín dụng, tuổi đời, trạng thái tài sản, số người phụ thuộc, sở hữu nhà, thu nhập, điện thoại cố định, số loại tài khoản cá nhân, thời gian công tác.
Mô hình cho điểm tín dụng tiêu dùng thường sử dụng từ 7 đến 12 hạng mục, mỗi hạng mục được cho điểm từ 1 đến 10. Ví dụ, Bảng 3.1 dưới đây cho thấy những hạng mục và điểm của chúng thường được sử dụng ở các NH của Mỹ
Bảng 3.1: Bảng chỉ tiêu chấm điểm tín dụng tiêu dùng
Các hạng mục xác định chất lượng tín dụng | Điểm số | |
Nghề nghiệp của người vay | ||
Chuyên gia hay phụ trách kinh doanh | 10 | |
Công nhân có kinh nghiệm (tay nghề cao) | 8 | |
1 | Nhân viên văn phòng | 7 |
Sinh viên | 5 | |
Công nhân không có kinh nghiệm | 4 | |
Công nhân bán thất nghiệp | 2 | |
Trạng thái nhà ở | ||
2 | Nhà riêng Nhà thuê hay căn hộ | 6 4 |
Sống cùng bạn hay người thân | 2 | |
Xếp hạng tín dụng | ||
Tốt | 10 | |
3 | Trung bình | 5 |
Không có hồ sơ | 2 | |
Tồi | 0 | |
Kinh nghiệm nghề nghiệp | ||
4 | Nhiều hơn 1 năm Từ 1 năm trở xuống | 5 2 |
Thời gian sống tại địa chỉ hiện hành | ||
5 | Nhiều hơn 1 năm Từ 1 năm trở xuống | 2 1 |
Điện thoại cố định | ||
6 | Có | 2 |
Không | 0 | |
Số người sống cùng (phụ thuộc) | ||
Không | 3 | |
7 | Một Hai | 3 4 |
Ba | 4 | |
Nhiều hơn ba | 2 | |
Các tài khoản tại ngân hàng | ||
Cả tài khoản tiết kiệm và phát hành séc | 4 | |
8 | Chi tài khoản tiết kiệm Chỉ tài khoản tiết kiệm và phát hành séc | 3 2 |
Không có | 0 |
Có thể bạn quan tâm!
- Tỷ Trọng Chấm Điểm Các Chỉ Tiêu Phi Tài Chính.
- Kiểm Tra Sử Dụng Vốn Vay, Giám Sát Tuân Thủ Quy Trình Tín Dụng, Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Kiểm Tra Nội Bộ
- Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Và Hoàn Thiện Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh Hà Nội - 14
- Nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Chi nhánh Hà Nội - 15
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Nguồn: PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (2005), Quản trị rủi ro trong kinh doanh
ngân hàng, NXB Thống kê