Nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại làng nghề truyền thống Bát Tràng - Hà Nội - 1



LỜI MỞ ĐẦU

Lịch sử phát triển văn hóa cũng như lịch sử phát triển kinh tế nước nhà luôn gắn liền với lịch sử phát triển của làng nghề Việt Nam. Làng nghề không chỉ là nơi sản xuất ra những sản phẩm thủ công truyền thống mang nét riêng độc đáo, đặc sắc của Việt Nam mà còn là không gian văn hóa, kinh tế, xã hội và công nghệ truyền thống lâu đời. Nó bảo lưu những tinh hoa nghệ thuật và kỹ thuật truyền từ đời này sang đời khác, được thể hiện qua bàn tay, khối óc của các thế hệ nghệ nhân tài năng với những sản phẩm mang bản sắc riêng của mình nhưng lại tiêu biểu cho cả dân tộc Việt Nam qua từng giai đoạn lịch sử. Làng nghề truyền thống là tài nguyên du lịch (văn hóa) có giá trị và đã được khai thác phục vụ phát triển du lịch.

Trên thế giới, du lịch làng nghề là loại hình du lịch văn hóa phát triển mạnh mẽ gắn với xu hướng bảo tồn các giá trị truyền thống và đem lại lợi ích cho cộng đồng dân cư. Ở Việt Nam trong nhiều năm trở lại đây, du lịch làng nghề là loại hình du lịch được quan tâm phát triển.

Một trong những làng nghề truyền thống nổi tiếng ở vùng đồng bằng Bắc bộ nói chung và Hà Nội nói riêng đã được đưa vào khai thác du lịch đó là làng gốm Bát Tràng. Làng nghề gốm Bát Tràng đã trở thành một trong những điểm du lịch quan trọng tại Hà Nội trong nhiều năm trở lại đây. Làng nghề Bát Tràng đã được đầu tư một số hạng mục về cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng cũng một số dịch vụ, tour tuyến để phát triển du lịch như: dịch vụ ăn uống, chương trình tập làm gốm, bán hàng lưu niệm, thăm quan xưởng nghề.

Tuy nhiên, một số vấn đề trong hoạt động sản xuất tại làng nghề như: ô nhiễm môi trường, khí thải... và chất lượng dịch vụ chưa thực sự hấp dẫn, công tác tuyên truyền quảng bá, liên kết giữa làng nghề và công ty lữ hành để phát triển tuyến điểm du lịch còn chưa chặt chẽ; đội ngũ hướng dẫn viên, thuyết minh viên tại điểm, văn hóa ứng xử chưa được quan tâm đầu tư..., yếu tố văn hóa làng nghề truyền thống chưa khai thác nên hoạt động du lịch tại làng nghề Bát Tràng chưa thực sự hiệu quả, thì cần phải có sự nghiên cứu chuyên sâu hơn nữa, đầu tư, quy

hoạch phát triển du lịch làng nghề một cách cụ thể, phải làm mới sản phẩm, làm

cho sản phẩm hấp dẫn hơn, cải thiện môi trường và phát triển làng nghề theo hướng bền vững; bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch; xúc tiến quảng bá...

Chính vì những lí do như trên nên mà em đã chọn đề tài nghiên cứu " Nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại làng nghề truyền thống Bát Tràng

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 91 trang tài liệu này.

- Hà Nội" với mong muốn sẽ đóng phần vào ý tưởng cho việc nâng cao hơn nữa sức hấp dẫn cho hoạt động du lịch tại làng nghề Bát Tràng trong tương lai.

2. Mục đích và nội dung nghiên cứu

Nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại làng nghề truyền thống Bát Tràng - Hà Nội - 1

a. Mục đích

- Tìm hiểu các giá trị tiêu biểu có thể phục vụ cho hoạt động du lịch và thực trạng khai thác hoạt động du lịch ở làng nghề Bát Tràng

- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của du lịch làng nghề Bát Trang

b. Nội dung nghiên cứu

- Khóa luận nghiên cứu về những nét đặc sắc và thực trạng khai thác tại làng nghề truyền thống Bát Tràng. Qua đó nêu lên một số ý kiến góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch tại làng nghề.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

a. Đối tượng nghiên cứu

- Các di tích lịch sử văn hóa, cảnh quan làng nghề, các họat động sản xuất có thể phục vụ khai thác du lịch, các hoạt động du lịch hiện nay tại làng nghề Bát Tràng.

b. Phạm vi nghiên cứu

- Khóa luận nay tập trung nghiên cứu làng gốm Bát Tràng và các hoạt động khai thác du lịch hiện nay tại làng nghề Bát Tràng.

4. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Trong quá trình làm khóa luận em đã tham khảo các tài liệu như: du lịch và kinh doanh du lịch, Làng nghề truyền thống Việt Nam, trang web: Battrang. info.. các thông tin trên báo đài internet..

- Phương pháp tổng hợp phân tích: Khóa luận đã sử dụng phương pháp này để đánh giá, tổng hợp, đưa ra nhận xét dựa trên các tư liệu đã thu thập được. Từ đó có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề nghiên cứu và đưa ra kết luận.

5. Bố cục khóa luận

Chương 1: Du lịch làng nghề và tài nguyên du lịch làng nghề tại Bát Tràng Chương 2: Thực trạng khai thác hoạt động du lịch ở làng nghề Bát Tràng

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả khai thác hoạt động du lịch tại làng nghề truyền thống Bát Tràng - Hà Nội



PHẦN 2: NỘI DUNG KHÓA LUẬN

Chương 1: Du lịch làng nghề và tài nguyên du lịch làng nghề Bát Tràng

1.1 Du lịch làng nghề

1.1.1 Khái niệm làng nghề, đặc điểm và phân loại

1.1.1.1 Khái niệm làng nghề

Cùng với sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp từ hàng ngàn năm, nhiều nghề thủ công cũng đã ra đời tại các vùng nông thôn Việt Nam. Làng nghề bắt đầu hình thành từ những nghề thủ công ban đầu được cư dân tranh thủ làm lúc nông nhàn, những lúc không phải là vụ mùa chính. Sau đó, nhờ những lợi ích khác nhau do các nghề thủ công đem lại mà mỗi làng bắt đầu có sự phân hóa. Nghề đem lại lợi ích nhiều thì phát triển mạnh dần, ngược lại những nghề mà hiệu quả thấp hay không phù hợp thì dần bị mai một. Từ đó hình thành nên những làng nghề chuyên sâu vào một nghề duy nhất nào đó như: làng nghề gốm Bát Tràng, Làng mây tre đan lát Phú Vinh, làng đúc đồng, làng làm lụa, làng làm chiếu, khảm Chuyên Mỹ, v.v…

- Khái niệm Làng nghề truyền thống : Cho đến nay vẫn chưa có khái niệm chính thống về “làng nghề”. Trong cuốn Văn hoá Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, GS. Trần Quốc Vượng đã "thử đưa ra một định nghĩa về làng nghề" nhưng thực chất đây là một định nghĩa đầy đủ nhất từ trước đến nay. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì “làng nghề là một làng tuy vẫn còn trồng trọt theo lối tiểu nông và chăn nuôi nhưng cũng có một số nghề phụ khác như đan lát, gốm sứ, làm tương... song đã nổi trội một nghề cổ truyền, tinh xảo với một tầng lớp thợ thủ công chuyên nghiệp hay bán chuyên nghiệp, có phường (cơ cấu tổ chức), có ông trùm, ông cả... cùng một số thợ và phó nhỏ, đã chuyên tâm, có quy trình công nghệ nhất định “sinh ư nghệ, tử ư nghệ”, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sống chủ yếu được bằng nghề đó và sản xuất ra những mặt hàng thủ công, những mặt hàng này đã có tính mỹ nghệ, đã trở thành sản phẩm hàng và có quan hệ tiếp thị với một thị trường

là vùng rộng xung quanh và với thị trường đô thị và tiến tới mở rộng ra cả nước rồi có thể xuất khẩu ra cả nước ngoài”1. Định nghĩa này hàm ý về các làng nghề truyền thống, đó là những làng nghề nổi tiếng từ hàng nghìn năm.

Làng nghề truyền thống gắn liền với quy trình sản xuất ra sản phẩm, gắn bó với nghệ nhân, không gian sản xuất, các vấn đề về truyền thống trong làng nghề (thờ ông tổ làng nghề, lễ giỗ tổ làng nghề...). Làng nghề truyền thống tồn tại trong không gian và trải qua thời gian, những giá trị tinh hoa của làng nghề truyền thống trở thành di sản văn hóa (vô hình và hữu hình) độc đáo và có giá trị đặc biệt trong đời sống hiện đại.

Tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa và cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước, đã đem lại những thuận lợi và khó khăn thách thức đối với các làng nghề truyền thống. Mở cửa, hội nhập, các làng nghề có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình với khách nước ngoài. Là một nước đang phát triển, nền kinh tế còn phụ thuộc chủ yếu vào nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, việc thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ vào hiện đại hóa nông thôn, trong đó bao gồm cả việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống ở Việt Nam là việc làm rất cần thiết. Trong quá trình phát tiển kinh tế đất nước, làng nghề đóng vai trò hết sức quan trọng, đóng góp của các làng nghề tạo ra nhiều nét khởi sắc cho kinh tế địa phương cũng như đất nước.

Tuy nhiên làng nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay và đang có nguy cơ bị mai một, thất truyền do nhu cầu của xã hội thay đổi, đứt gãy về truyền thống do công nghệ sản xuất không được truyền lại đời sau, không có lớp nghệ nhân kế cận, ô nhiễm môi trường, đô thị hóa.

* Năm 2006, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Thông tư số 116/2006/TT-BNN ngày 18 tháng 12 năm 2006 quy định nội dung và các tiêu



1 Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nhà Xuất bản Văn hóa dân tộc và Tạp Chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội 2000, Trang 372

chí dùng để công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống. Theo đó:

- Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 03 tiêu chí sau: (a) nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận;

(b) nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc; (c) nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề.

- Làng nghề được công nhận phải đạt 03 tiêu chí sau: (a) có tối thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn; (b) hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; (c) chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước

- Làng nghề truyền thống được công nhận phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại Thông tư này. Đối với những làng chưa đạt tiêu chí công nhận làng nghề (theo tiêu chí (a) và (b) trên đây) nhưng có ít nhất một nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông tư này thì cũng được công nhận là làng nghề truyền thống.

1.1.1.2 Đặc điểm và phân loại

a) Đặc điểm

- Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp. Các làng nghề xuất hiện trong từng làng - xã ở nông thôn sau đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau. Người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân.

- Hai là, công nghệ kỹ thuật sản xuất sản phẩm trong các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống thường rất thô sơ, lạc hậu, sử dụng kỹ thuật thủ công là chủ yếu. Công cụ lao động trong các làng nghề đa số là công cụ thủ công, công nghệ sản xuất mang tính đơn chiếc. Nhiều loại sản phẩm có công nghệ - kỹ thuật hoàn toàn phải dựa vào đôi bàn tay khéo léo của người thợ mặc dù hiện nay đã có sự cơ khí hoá và điện khí hoá từng bước trong sản xuất, song cũng chỉ có một số

không nhiều nghề có khả năng cơ giới hoá được một số công đoạn trong sản xuất sản phẩm.

- Ba là, đại bộ phận nguyên vật liệu của các làng nghề thường là tại chỗ. Hầu hết các làng nghề truyền thống được hình thành xuất phát từ sự sẵn có của nguồn nguyên liệu sẵn có tại chỗ, trên địa bàn địa phương. Cũng có thể có một số nguyên liệu phải nhập từ vùng khác hoặc từ nước ngoài như một số loại chỉ thêu, thuốc nhuộm... song không nhiều.

- Bốn là, phần đông lao động trong các làng nghề là lao động thủ công, nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân. Trước kia, do trình độ khoa học và công nghệ chưa phát triển thì hầu hết các công đoạn trong quy trình sản xuất đều là thủ công, giản đơn. Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học- công nghệ, việc ứng dụng khoa học- công nghệ mới vào nhiều công đoạn trong sản xuất của làng nghề đã giảm bớt được lượng lao động thủ công, giản đơn. Tuy nhiên, một số loại sản phẩm còn có một số công đoạn trong quy trình sản xuất vẫn phải duy trì kỹ thuật lao động thủ công tinh xảo. Việc dạy nghề trước đây chủ yếu theo phương thức truyền nghề trong các gia đinh từ đời này sang đời khác và chỉ khuôn lại trong từng làng. Sau hoà bình lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã làm nghề thủ công truyền thống ra đời, làm cho phương thức truyền nghề và dậy nghề đã có nhiều thay đổi, mang tính đa dạng và phong phú hơn.

- Năm là, sản phẩm làng nghề, đặc biệt là làng nghề mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Các sản phẩm làng nghề truyền thống vừa có giá trị sử dụng, vừa có giá trị thẩm mỹ cao, vì nhiều loại sản phẩm vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng, vừa là vật trang trí trong nhà, đền chùa, công sở Nhà nước... Các sản phẩm đều là sự kết giao giữa phương pháp thủ công tinh xảo với sự sáng tạo nghệ thuật. Cùng là đồ gốm sứ, nhưng người ta vẫn có thể phân biệt được đâu là gốm sứ Bát Tràng (Hà Nội), Thổ Hà (Bắc Ninh), Đông Triều (Quảng Ninh). Từ những con rồng chạm trổ ở các đình chùa, hoa văn trên các trống đồng và các hoạ tiết trên đồ gốm sứ đến những nét chấm phá trên các bức

thêu... tất cả đều mang vóc dáng dân tộc, quê hương, chứa đựng ảnh hưởng về văn hoá tinh thần, quan niệm về nhân văn và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc.

- Sáu là, thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề hầu hết mang tính địa phương, tại chỗ và nhỏ hẹp. Bởi sự ra đời của các làng nghề, đặc biệt là các làng nghề truyền thống, là xuất phát từ việc đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng tại chỗ của các địa phương. Ở mỗi một làng nghề hoặc một cụm làng nghề đều có các chợ dùng làm nơi trao đổi, buôn bán, tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề. Cho đến nay, thị trường làng nghề về cơ bản vẫn là các thị trường địa phương, là tỉnh hay liên tỉnh và một phần cho xuất khẩu.

- Bảy là, hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là ở quy mô hộ gia đình, một số đã có sự phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân.

b) Phân loại

Làng nghề theo cách phân chia về thời gian gồm có: làng nghề truyền thống và làng nghề mới.

- Làng nghề truyền thống đã phát triển trong quá khứ nhưng đến nay không tồn tại hoặc không phát triển. Nhưng không phải làng nghề truyền thống nào cũng có thể khai thác để phát triển du lịch

- Những loại làng nghề truyền thống có tiềm năng để phát triển du lịch: đó là làng nghề thủ công truyền thống, tồn tại trong không gian xác định, có sản phẩm là hàng thủ công, sản phẩm có tính cách riêng biệt được nhiều nơi biết đến, duy trì và gìn giữ được những nét truyền thống văn hóa dân tộc đã được bao nhiêu thế hệ người Việt Nam hun đúc lên...

1.1.2 Du lịch làng nghề

1.1.2.1 Khái niệm

Nhìn chung khái niệm làng nghề truyền thống còn khá mới mẻ ở nước ta. Du lịch làng nghề truyền thống thuộc loại hình du lịch văn hóa . Do vậy khi xem xét khái niệm du lịch làng nghề truyền thống, trước tiên phải đi từ khái niệm du lịch văn hóa.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 09/09/2022