Cơ Sở Lý Luận Về Nâng Cao Chất Lượng Lao Động Tại Các Doanh Nghiệp Du Lịch.


- Phạm vi nghiên cứu:

+ Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu nâng cao chất lượng lao động tại các DN du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Yên hiện nay.

+ Về không gian: Trên địa bàn tỉnh Phú Yên.

+ Về thời gian: Số liệu được thu thập, xử lý và phân tích trong giai đoạn 2011

– 2015, những giải pháp được đề xuất đến năm 2025.

4. Tổng quan và đóng góp của đề tài

DL nước ta đang đứng trước những cơ hội to lớn nhưng thách thức cũng không nhỏ. Chúng ta có nhiều lợi thế về cảnh quan thiên nhiên đẹp; lịch sử, văn hóa giàu bản sắc; con người cần cù, hiếu khách; đất nước hòa bình, chế độ chính trị ổn định, kinh tế liên tục phát triển, được bạn bè thế giới bình chọn là “điểm đến an toàn, thân thiện”. Tuy nhiên, trong tương quan của hội nhập quốc tế, chúng ta phải chịu sự tác động mạnh mẽ trong bối cảnh quốc tế biến động phức tạp. Sự phân công lao động quốc tế trong DL ở khu vực và toàn cầu có cấu trúc, quy mô và cơ chế vận hành mới. Quá trình phát triển kinh tế tri thức trong lĩnh vực dịch vụ diễn ra nhanh chóng, tạo ra và dựa trên những lực lượng sản xuất và lợi thế phát triển mới, cạnh tranh về lao động rất gay gắt. Chỉ có bắt kịp sự thay đổi nhanh chóng về tương quan lực lượng trên quy mô toàn cầu; về lợi thế so sánh và chiến lược, chính sách phát triển DL của các nước, các công ty đa quốc gia mới có thể đến thành công. Để DL phát triển mạnh mẽ, cần tích cực huy động mọi nguồn lực, trong đó, yếu tố quan trọng và mang tính quyết định nhất là NNL. Chính vì vậy, đã có rất nhiều tài liệu khoa học, công trình nghiên cứu về NNL, đặc biệt là đối với ngành DL – “ngành công nghiệp không khói”. Cụ thể là một số các báo cáo, tài liệu khoa học và công trình nghiên cứu sau đây:

- Nguyễn Thị Cẩm Hà, 2015, “Nâng cao chất lượng lao động trực tiếp làm công tác DL tại các DN ở Thành phố Hội An”, luận văn Thạc sỹ, ngành Quản trị nhân lực, trường Đại học Lao động và Xã hội. Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng lao động trực tiếp làm công tác DL và làm rõ thực trạng hoạt động vấn đề nghiên cứu tại các DN ở Hội An, chỉ ra những tồn tại, hạn chế và


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 98 trang tài liệu này.

nguyên nhân gây ra chúng. Từ đó đề xuất các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao chất lượng lao động trực tiếp làm công tác DL tại các DN ở Thành phố Hội An. Điểm mới của đề tài là đề xuất hệ thống chỉ tiêu đánh giá các hoạt động nâng cao chất lượng lao động trực tiếp làm công tác DL tại các DN. Tuy nhiên, đề tài chỉ nghiên cứu một bộ phận trong tổng thể NNL cho ngành DL nên những giải pháp tác giả đề xuất vẫn chưa bao quát được mặt bằng chung cho nguồn lao động của ngành DL.

- Phạm Cao Tố, 2012, “Nâng cao chất lượng đào tạo NNL ngành DL tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”, luận văn Thạc sỹ, ngành Quản trị kinh doanh, trường Đại học Công nghệ Tp.HCM. Luận văn tập trung nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo NNL ngành DL tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trên cơ sở lý thuyết, tham khảo các mô hình nghiên cứu đã có và khảo sát định tính, tác giả đã xây dựng mô hình và thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo NNL ngành DL. Qua đó, tác giả tiến hành khảo sát bằng hình thức phát phiếu điều tra và dùng phần mềm SPSS để xử lý, phân tích. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất các hàm ý quản trị nhằm nâng cao chất lượng đào tạo NNL ngành DL tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Tuy nhiên, mức độ khảo sát ý kiến đánh giá của nhóm đối tượng là những người đang theo học tại trường Cao đẳng Nghề DL Vũng Tàu mà chưa đa dạng đối tượng được khảo sát như lao động tại các DN DL, cán bộ, lãnh đạo các đơn vị quản lý.

Nâng cao chất lượng lao động tại các doanh nghiệp du lịch ở tỉnh Phú Yên - 3

- Nguyễn Thanh Tùng, 2015, “Nâng cao chất lượng NNL quản lý Nhà nước của Sở Giao thông vận tải tỉnh Sóc Trăng”, luận văn Thạc sỹ, ngành Quản trị kinh doanh, trường Đại học Công nghệ Tp.HCM. Trên cơ sở phân tích lý luận về nâng cao chất lượng NNL về ngành Giao thông vận tải, luận văn đã làm rõ thực trạng vấn đề nghiên cứu tại Sở Giao thông vận tải tỉnh Sóc Trăng. Từ đó, tác giả đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng NNL trong quản lý Nhà nước tại Sở Giao thông vận tải tỉnh Sóc Trăng. Đề tài góp phần đóng góp thêm cơ sở khoa học cho hoạt động nâng cao chất lượng NNL quản lý Nhà nước tại Sở Giao thông vận tải. Tuy nhiên, các giải pháp vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế.


- Bộ Văn hóa, Thể thao và DL, 2011, Quy hoạch “Phát triển nhân lực ngành DL giai đoạn 2011 – 2020”, Hà Nội. Bản quy hoạch trên tập trung giải quyết tám vấn đề liên quan đến nhân lực ngành DL, gồm: Tăng cường năng lực hệ thống quản lý phát triển nhân lực ngành DL; Đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ quản lý và lao động ngành DL; Phát triển đội ngũ giáo viên, giảng viên, đào tạo viên DL; Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng cường năng lực của cơ sở đào tạo DL; Phát triển chương trình, giáo trình; xây dựng và áp dụng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp DL; Ứng dụng công nghệ mới trong phát triển nhân lực DL; Hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực ngành DL; Nâng cao nhận thức cộng đồng về DL và phát triển nhân lực ngành DL. Từ đó, đưa ra các giải pháp phát triển nhân lực ngành DL giai đoạn 2011

– 2020 và các dự án ưu tiên. Việc xây dựng quy hoạch trên đã đáp ứng được nhu cầu phát triển DL nhanh và bền vững, thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Phan Thu Hằng, 2011, “Phát triển NNL chất lượng cao tại Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ, tập 14, số Q1, tr. 101-111. Bài báo này nghiên cứu tính hệ thống về những đặc trưng và chỉ tiêu NNL chất lượng cao, những yêu cầu và giải pháp phát triển NNL chất lượng cao và nâng cao chất lượng NNL trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hướng đến việc trở thành trung tâm công nghiệp, dịch vụ, giáo dục – đào tạo, khoa học – công nghệ của Đông Nam Á.

Hồ Thị Ánh Vân, 2011, “Đào tạo NNL ngành DL thành phố Đà Nẵng đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020”, luận văn Thạc sỹ, ngành Kinh tế phát triển, trường Đại học Đà Nẵng. Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về đào tạo NNL DL để chỉ ra thực trạng NNL và công tác đào tạo NNL ngành DL thành phố Đà Nẵng, đồng thời đánh giá chung những ưu điểm và tồn tại. Từ đó đề xuất giải pháp dào tạo NNL ngành DL thành phố Đà Nẵng đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020. Đề tài đưa ra cái nhìn tổng quát về đào tạo NNL ngành DL tại thành phố Đà Nẵng, qua đó làm cơ sở xác định một số chính sách để thành phố có kế hoạch kịp thời hơn. Tuy nhiên do thực trạng chưa được phân tích sâu sát nên dẫn đến các giải pháp đề xuất chưa thiết thực.


Điểm mới của luận văn là: Đề xuất các giải pháp thiết thực đáp ứng yêu cầu cấp bách hiện nay về nâng cao chất lượng NNL cho ngành DL tỉnh Phú Yên, nhất là lao động tại các DN du lịch, kết quả nghiên cứu sẽ làm cơ sở giúp ngành DL tỉnh nhà và các cơ quan hữu quan xây dựng được nguồn lao động phục vụ cho ngành DL, ngành kinh tế mũi nhọn trong Quy hoạch phát triển KTXH tỉnh Phú Yên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

5. Phương pháp nghiên cứu


- Phương pháp thu thập số liệu:


+ Thu thập số liệu thứ cấp: bao gồm các tài liệu, sách báo, tạp chí, công trình nghiên cứu, niên giám thống kê… trong và ngoài nước đã được công bố. Nguồn dữ liệu của Tổng cục thống kê; Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch; Tổng cục Du lịch Việt Nam; UBND Tỉnh Phú Yên; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, các sở ban ngành liên quan và các nguồn khác…

+ Thu thập số liệu sơ cấp: số liệu sơ cấp thu được thông qua việc tiến hành điều tra lao động tại các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch… về những vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu. Việc điều tra, được tiến hành thông qua các phiếu điều tra khảo sát được thiết kế theo mẫu với nội dung là những tiêu chí đã được lựa chọn để phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu. Tổng số phiếu phát ra là 585 phiếu, thu về 492 phiếu, sau khi loại những mẫu hỏng kết quả thu về 456 phiếu hợp lệ. Tác giả ước lượng mẫu theo công thức:


n: cỡ mẫu nghiên cứu cần có N: kích thước của tổng thể e: mức sai lệch cho phép

Kết quả ước lượng mẫu là 299 phiếu, tác giả thu về 456 phiếu thoả mãn được cỡ mẫu tối thiểu cần đạt được.


- Phương pháp nghiên cứu:


+ Phương pháp phân tích thống kê: sử dụng các nguồn dữ liệu thứ cấp tin cậy của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Tổng cục Du lịch, Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, Chi cục Thống kê tỉnh Phú Yên, Tổng cục Thống kê, các sở, ban, ngành, địa phương có liên quan, các doanh nghiệp chuyên về du lịch trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các số liệu chính thức được công bố của các tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO), diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)… Từ các nguồn số liệu trên, tác giả sử dụng phương pháp phân tích thống kê để đánh giá thực trạng chất lượng lao động tại các DN du lịch của tỉnh Phú Yên.

Phương pháp so sánh: Sử dụng phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá so sánh giữa Phú Yên với một số tỉnh có điều kiện tương tự, đặc biệt là trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, sử dụng so sánh để đối chiếu các số liệu liên quan đến chất lượng lao động tại các DN du lịch giữa các kỳ và năm hoạt động của tỉnh.

6. Bố cục của luận văn


Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, bố cục của luận văn gồm 3 chương:


Chương 1: Cơ sở lý luận về nâng cao chất lượng lao động tại các doanh nghiệp du lịch.

Chương 2: Thực trạng chất lượng lao động tại các doanh nghiệp du lịch ở tỉnh Phú Yên.

Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng lao động tại các doanh nghiệp du lịch ở tỉnh Phú Yên.


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TẠI CÁC DOANH NGHIỆP DU LỊCH

1.1. Các khái niệm liên quan


1.1.1. Nguồn nhân lực


Trong tình hình nền kinh tế thế giới đang dần chuyển sang kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra sâu rộng và nhanh chóng thì yếu tố NNL được coi là yếu tố quan trọng quyết định sự phát triển KTXH của mọi quốc gia. NNL là động lực cho sự phát triển kinh tế nói riêng và là động lực phát triển xã hội, con người nói chung. Đại hội lần thứ XI của Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “Phát triển, nâng cao CLNNL, nhất là NNL chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững đất nước”. Vậy thế nào là NNL? Các khái niệm về “NNL” hay “nguồn lực con người” hay “tài nguyên con người” đang được sử sụng rất rộng rãi. Theo một số tác giả chương trình khoa học - công nghệ cấp Nhà nước: “Con người Việt Nam – mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế xã hội” mang mã số KX.07 do GS.TSKH Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm thì đây là những khái niệm đều được dịch từ cụm từ “human resources”, tuỳ cách dịch. Khái niệm NNL được sử dụng từ những năm 60 của thế kỷ XX ở nhiều nước phương Tây và một số nước Châu Á và giờ đây thịnh hành trên thế giới dựa trên quan niệm mới về vai trò, vị trí của con người trong sự phát triển. Ở nước ta, khái niệm này được sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX đến nay. Mặc dù đã có rất nhiều các bài viết về NNL, tuy nhiên vẫn chưa có tài liệu nào chính thức đưa ra định nghĩa về NNL. Ở những góc độ khác nhau sẽ có những quan niệm khác nhau về NNL.

Trong báo cáo của Liên hợp quốc đánh giá về những tác động của toàn cầu hoá đối với NNL đã đưa ra định nghĩa: “NNL là trình độ lành nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế, hoặc tiềm năng để phát triển KTXH trong một cộng đồng”. Trong quan niệm này, điểm được đánh giá cao


là coi các tiềm năng của con người cũng là năng lực khả năng để từ đó có những cơ chế thích hợp trong quản lý, sử dụng.

Một số nhà khoa học tham gia chương trình KX.07 cho rằng NNL được hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ và trí tuệ, năng lực và phẩm chất.

Theo Phạm Minh Hạc (2001): “NNL là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những NLĐ có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa”.

Theo Nguyễn Tiệp (2005): NNL là nguồn lực con người, yếu tố quan trọng, năng động nhất của tăng trưởng và phát triển KTXH. Trước hết với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, ở nghĩa rộng nhất thì “NNL bao gồm toàn bộ dân cư có khả năng lao động”, không phân biệt người đó đang được phân bố vào ngành nghề, lĩnh vực, khu vực nào và có thể coi đây là NNL xã hội. Với tư cách là khả năng đảm đương lao động chính của xã hội thì “NNL được hiểu theo nghĩa hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động (do pháp luật lao động quy định)”.

Với những quan niệm NNL khác nhau sẽ có những lý thuyết và cách tiếp cận khác nhau. Nhưng trong phạm vi đề tài này chúng ta có thể hiểu: NNL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, có tiềm năng về lao động (thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức…) và có khả năng huy động vào quá trình phát triển KTXH của đất nước trong một thời kỳ xác định.

1.1.2. Nguồn nhân lực ngành du lịch


Từ những khái niệm trên về NNL, ta có thể định nghĩa NNL ngành DL như sau: NNL ngành DL là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, có tiềm năng về


lao động (thể lực, trí lực, phẩm chất đạo đức…) tham gia vào các hoạt động phục vụ cho ngành DL để duy trì và phát triển lĩnh vực này.

NNL trong ngành DL là một bộ phận cấu thành lao động xã hội. Nó hình thành và phát triển trên cơ sở của sự phân công lao động xã hội nên nó mang mọi đặc điểm chung của lao động xã hội. Tuy nhiên, ngành công nghiệp DL là một lĩnh vực có nhiều đặc thù nên NNL ngành DL cũng có những nét đặc điểm riêng:

- Lao động trong DL có tính chất chuyên môn hóa cao, mỗi bộ phận đòi hỏi một quy trình phục vụ thành thạo từ kỹ thuật phục vụ chuyển thành nghệ thuật phục vụ, đòi hỏi người nhân viên phải nắm kiến thức chuyên môn, có kỹ năng nghiệp vụ và đồng thời đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong quá trình phục vụ cho khách hàng. Mặt khác, lao động trong DL có tính thay thế tất yếu, có ý nghĩa là nhân viên ở bộ phận này không thể làm thay thế cho nhân viên ở một bộ phận khác. Chính vì vậy, NLĐ cần ý thức rằng bản thân họ chính là một phần trong chất lượng dịch vụ chung của DN.

- Thời gian làm việc của họ khó có thể định mức được, hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian tiêu dùng của khách hàng. Vì vậy, NLĐ thường phải làm việc vào những ngày cuối tuần, ngày lễ, Tết và có thể làm đêm.

- Cường độ làm việc trong ngành DL không cao nhưng phải chịu sức ép tâm lý và làm việc trong môi trường phức tạp, phục vụ đối tượng khách hàng đến từ các vùng miền khác nhau, các quốc gia khác nhau và những nền văn hóa khác nhau.

- Một trong những đặc thù lớn nhất của lao động trong ngành DL là tính chất thời vụ, chủ yếu thuộc vào sự phân bổ của tài nguyên du lịch, như du lịch biển, du lịch núi… tức là mọi loại hình DL có gắn với việc thưởng thức cảnh quan thiên nhiên thì chịu ảnh hưởng của thời tiết khí hậu, phong tục tập quán, hay quy ước xã hội…

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/06/2023