ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy người thụ hưởng không ưa dùng thanh toán bằng séc chuyển khoản đối với khoản tiền hàng có giá trị lớn.
- Nguyên nhân nữa là khi người bán nhận trực tiếp tờ séc chuyển khoản từ người mua, họ không tránh khỏi những băn khoăn về khả năng thanh toán của tờ séc vì họ không biết chắc chắn rằng số dư trên tài khoản tiền gửi của người mua có đủ để thanh toán cho mình hay không. Nếu xảy ra trường hợp phát hành quá số dư thì cùng một lúc người phát hành séc phải chịu hai loại phạt: Phạt quá số dư (30%) và phạt chậm trả. Tuy nhiên cũng có một vài tờ séc chuyển khoản khi về đến ngân hàng nhưng trên tài khoản tiền gửi của họ không có đủ số dư thanh toán, những trường hợp này không phải do khách hàng cố ý mà do tiền của họ chưa về kịp trong ngày, hoặc do những khoản chi tiêu đột xuất... nhiều khi số tiền vượt quá số dư không lớn lắm. Nếu ngân hàng tính phạt khách hàng lúc này là chưa thoả đáng. Hơn nữa mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng là tín nhiệm và làm ăn lâu dài, do đó chủ yếu là quen biết nể nang mà ngân hàng không tính phạt.
Séc chuyển khoản không ghi tên, số chứng minh thư của người cầm séc, không ghi nội dung chi trả làm cho đơn vị phát hành séc khó theo dõi.
Do có những hạn chế đã nêu trên mà séc chuyển khoản chỉ được sử dụng thanh toán giữa các đơn vị có độ tín nhiệm cao.
b. Séc bảo chi.
Tình hình sử dụng séc bảo chi trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa, qua số liệu bảng 3 cho thấy về số món thì mức độ sử dụng séc bảo chi trong 6 tháng đầu năm 1999 và 6 tháng đầu năm 2000 là không đổi, giữ ở mức 26,7%. Về mặt doanh số thanh toán bằng séc bảo chi tăng trong 6 tháng đầu năm 2000 đã tăng từ 23,7% (6 tháng đầu năm 1999) lên 28,8%. Điều này cho thấy thể thức thanh toán bằng séc bảo chi có chiều hướng tăng.
Tuy nhiên trong các thể thức thanh toán không dùng tiền mặt thì séc bảo chi chỉ được áp dụng ở mức thứ 4 so với séc chuyển khoản. Sử dụng séc bảo chi có những ưu điểm sau:
- Do điều kiện bảo chi séc đơn vị thanh toán phải lưu ký một khoản tiền bằng số tiền trên séc vào ngân hàng thanh toán nên séc bảo chi được ghi có ngay cho đơn vị thụ hưởng (với điều kiện tờ séc đủ điều kiện), không làm ứ đọng vốn và gây độ tin cậy giữa các đơn vị kinh tế.
- Séc bảo chi thanh toán cùng hệ thống được phép ghi “có” trước ghi “nợ” sau nên khi khách hàng nộp séc bảo chi vào ngân hàng, sau khi kiểm tra thấy tờ séc hợp lệ, ngân hàng sẽ thanh toán ngay cho khách hàng. Nếu thanh toán khác hệ thống theo quy định hiện nay “nợ” “có” đồng thời tại phiên giao dịch bù trừ. Vì vậy tốc độ thanh toán bằng séc bảo chi khá nhanh.
Có thể bạn quan tâm!
- Thẻ Ghi Nợ (Thẻ Không Phải Ký Quỹ) Còn Lại Là Thẻ Loại A.
- Khái Quát Hoạt Động Kinh Tế Xã Hội Quận Đống Đa.
- Thực Trạng Thanh Toán Không Dùng Tiền Mặt Tại Ngân Hàng Công Thương Đống Đa:
- Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa - 7
- Một số vấn đề về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa - 8
Xem toàn bộ 64 trang tài liệu này.
Bên cạnh những ưu điểm sử dụng séc bảo chi còn có những nhược điểm sau:
- Thủ tục bảo chi phiền hà. Đơn vị, cá nhân muốn bảo chi tờ séc phải lập 2 liên “giấy yêu cầu bảo chi séc” theo mẫu quy định kèm theo tờ séc có đầy đủ các yếu tố, chữ ký dấu (nếu có) ở mặt trước tờ séc/
- Nếu đơn vị cá nhân có nhu cầu vay để thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ bằng thể thức bảo chi séc thủ tục rườm rà hơn. Đơn vị phải lập đồng thời cùng với uỷ nhiệm chi vay tiền chuyển vào tài khoản tiền gửi của đơn vị kèm theo thủ tục bảo chi tờ séc đã nêu trên.
- Số tiền mà đơn vị, cá nhân lưu ký để bảo chi séc không được ngân hàng trả
lãi.
- Nếu tờ séc bảo chi sai ký hiệu mật hoặc chữ ký bảo chi của ngân hàng bảo chi so với mẫu đã gửi sẽ gây chậm chễ trong thanh toán. Tính ký hiệu mật trên tờ séc bảo chi thực chất ngân hàng chỉ đảm bảo an toàn vốn mình chứ chưa đảm bảo vốn cho người bán. Khi nhận séc từ người phát hành thì người bán chỉ kiểm tra chứng minh thư của người mua mà không biết được tính ký hiệu mật này có đúng chưa. Việc kiểm tra
chứng minh thư của người mua không đủ đảm bảo là của người phát hành, vì trong nhiều trường hợp không nhận thấy sự giả mạo chứng minh thư, người bán sẽ chấp nhận tờ séc và giao cho người mua. Chỉ đến khi tờ séc vào ngân hàng họ mới phát hiện được tờ séc là giả mạo. Khi đó người bán sẽ thiệt.
Để đảm bảo thanh toán bằng séc bảo chi cần có những biện pháp giảm tối đa những sai sót trong nghiệp vụ và thanh toán. Từ những nhược điểm nêu trên đã làm cho thể thức thanh toán bằng séc bảo chi không được sử dụng nhiều trong thanh toán không dùng tiền mặt .
Qua phân tích về thể thức thanh toán bằng séc. Tuy thể thức thanh toán này đứng hàng thứ 3 trong thanh toán không dùng tiền mặt nhưng cũng chưa được áp dụng rộng rãi, vì bên cạnh những thuận lợi còn có nhiều hạn chế. Ngân hàng cần phải có biện pháp khắc phục tình trạng này nhằm mở rộng phạm vi thanh toán của séc. Trong nền kinh tế thị trường thì các đơn vị, cá nhân sẽ chọn phương thức thanh toán nào có lợi cho họ.
2.2. Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi - chuyển tiền:
Hiện nay tại Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi là hình thức thanh toán được khách hàng rất ưa chuộng và sử dụng nhiều nhất, chiếm tỷ trọng lớn về số món và doanh số thanh toán.
Số liệu ở bảng 2 đã phản ánh số món thanh toán bằng uỷ nhiệm chi qua hai kỳ như sau:
+ 6 tháng đầu năm 1999 có 21.150 món chiếm tỷ trọng 57,3% trong tổng doanh số thanh toán.
+ 6 tháng đầu năm 2000 có 23.035 món chiếm tỷ trọng 64,9% trong tổng doanh số thanh toán.
Doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi qua hai kỳ cũng tăng lên rõ rệt:
+ 6 tháng đầu năm 1999 doanh số thanh toán là 4.387.848 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 85,3% trong tổng doanh số thanh toán.
+ 6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán là 4.900.527 Triệu đồng chiếm tỷ trọng 90,9% trong tổng doanh số thanh toán.
Qua số liệu trên cho thấy thanh toán bằng uỷ nhiệm chi ngày càng tăng về cả số món và doanh số. Điều đó chứng tỏ việc dùng uỷ nhiệm chi để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ là phổ biến và được tất cả các thành phần kinh tế chọn để thanh toán nhiều nhất và nó đứng hàng đầu trong 4 thể thức thanh toán không dùng tiền mặt. Tính ưu việt của uỷ nhiệm chi thể hiện ở những điểm sau:
- Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi thủ tục đơn giản không gây phiền hà cho người trả tiền. Không phải giao nhận ngoại bảng như séc. Khi có nhu cầu thanh toán khách hàng người mua chỉ lập uỷ nhiệm chi (theo mẫu do ngân hàng bán) đem nộp cho ngân hàng thanh toán.
Hơn nữa do việc thanh toán liên hàng qua mạng vi tính và thanh toán bù trừ trên địa bàn Hà Nội rất nhanh nên hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi trở nên thuận tiện và kịp thời. Chỉ trong vòng 1- 2 ngày, thậm chí vài giờ kể từ khi người mua gửi uỷ nhiệm chi, người bán đã nhận được tiền. Do vậy đối với những khoản thanh toán tiền lớn, khách hàng thường thanh toán bằng uỷ nhiệm chi.
- Bên cạnh đó, uỷ nhiệm chi cũng được sử dụng thanh toán những khoản của chính ngân hàng như thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách, chi trả lãi điều hoà vốn... vì vậy doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm chi thường rất cao.
- Khách hàng còn dùng uỷ nhiệm chi để trích tài khoản tiền gửi của mình khi có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền, phát hành séc bảo chi hay xin chuyển tiền nhanh qua mạng vi tính một loại dịch vụ mới của ngân hàng gần đây rất phát triển. Trước đây những món chuyển tiền có thể kéo dài hàng tuần, nay nhờ mạng vi tính một món chuyển tiền chỉ mất 1 - 2 ngày (đối với chuyển tiền thường) và 1 - 2 giờ (đối với chuyển tiền nhanh). Vì vậy lượng khách chuyển tiền qua ngân hàng ngày càng nhiều.
Phí dịch vụ ngân hàng thực hiện như thu phí của séc áp dụng theo công văn 1015 của ngân hàng công thương Việt Nam ngày 25/9/1993.
Do Ngân hàng Công thương Đống Đa đã thực hiện tốt công tác thanh toán điện tử, thanh toán bù trừ qua máy vi tính đẩy nhanh tốc độ luân chuyển chứng từ, giúp cho khách hàng thu hồi vốn nhanh nên việc thanh toán bằng uỷ nhiệm chi được nhiều khách hàng ưa chuộng.
Tuy việc thanh toán bằng uỷ nhiệm chi có nhiều thuận lợi đã nêu nhưng cũng có một số hạn chế đó là:
- Việc trả tiền do người mua thực hiện. Vì vậy nếu người mua lập và gửi uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán không kịp thời sẽ ảnh hưởng lớn cho việc thu hồi vốn của người thụ hưởng.
- Trường hợp người mua nộp uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán nhưng số dư tiền gửi không đủ để thanh toán ngân hàng trả lạI hoặc để lui vào ngày hôm sau (không nhập ngoại bảng).
Những hạn chế của uỷ nhiệm chi dẫn đến các đơn vị kinh tế dễ lợi dụng để chiếm dụng vốn trong kinh doanh. Vì vậy, ngân hàng cần có biện pháp khắc phục hạn chế để hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi phát huy hơn nữa trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
ở Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi được áp dụng:
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản trong cùng ngân hàng.
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản trong cùng hệ thống ngân hàng trong địa bàn và khác địa bàn qua thanh toán liên hàng.
- Thanh toán giữa các đơn vị mở tài khoản khác hệ thống cùng địa bàn hoặc khác địa bàn qua thanh toán bù trừ.
Việc thanh toán trong hệ thống ngân hàng công thương được thực hiện thanh toán đIện tử (chứng từ đIện tử được thực hiện đến 15h30 trong ngày). Đối với khách
hàng có nhu cầu chuyển uỷ nhiệm chi thanh toán khác hệ thống, khác tỉnh nếu số tiền dưới 200 triệu đồng thực hiện chuyển qua thanh toán đIện tử về ngân hàng công thương tỉnh, sau đó ngân hàng công thương tỉnh chuyển tiếp cho các tổ chức tín dụng, kho bạc khác. Trên 200 triệu đồng sẽ chuyển qua tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Công thương Đống Đa tại ngân hàng nhà nước.
Việc sử dụng séc chuyển tiền cầm tay không được khách hàng ưa dùng, trong 6 tháng đầu năm 2000 không có khách hàng nào dùng hình thức này. Do séc cầm tay có hạn chế là khách hàng phải lưu ký số tiền trên séc vào ngân hàng, khi thanh toán người cầm séc phảI đến ngân hàng để làm thủ tục.
- Trường hợp người mua nộp uỷ nhiệm chi vào ngân hàng thanh toán nhưng số dư tiền gửi không đủ để thanh toán ngân hàng trả lạI hoặc để lui vào ngày hôm sau (không nhập ngoại bảng).
Những hạn chế của uỷ nhiệm chi dẫn đến các đơn vị kinh tế dễ lợi dụng để chiếm dụng vốn trong kinh doanh. Vì vậy, ngân hàng cần có biện pháp khắc phục hạn chế để hình thức thanh toán bằng uỷ nhiệm chi phát huy hơn nữa trong thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng Công thương Đống Đa.
ở Ngân hàng Công thương Đống Đa uỷ nhiệm chi được áp dụng:
- Thanh toán giữa các đơn vị trong cùng ngân hàng
- Thanh toán cùng hệ thống ngân hàng trong địa bàn và khác địa bàn thanh toán điện tử.
- Thanh toán khác hệ thống cùng địa bàn hoặc khác địa bàn qua thanh toán bù
trừ.
Việc thanh toán trong hệ thống ngân hàng công thương được thực hiện thanh toán đIện tử (chứng từ đIện tử được thực hiện đến 15h30 trong ngày). Đối với khách hàng có nhu cầu chuyển uỷ nhiệm chi thanh toán khác hệ thống, khác tỉnh nếu số tiền dưới 200 triệu đồng thực hiện chuyển qua thanh toán đIện tử về ngân hàng công thương tỉnh, sau đó ngân hàng công thương tỉnh chuyển tiếp cho các tổ chức tín dụng,
kho bạc khác. Trên 200 triệu đồng sẽ chuyển qua tài khoản tiền gửi của Ngân hàng Công thương Đống Đa tại ngân hàng nhà nước.
Việc sử dụng séc chuyển tiền cầm tay không được khách hàng ưa dùng, trong 6 tháng đầu năm 2000 không có khách hàng nào dùng hình thức này. Do séc cầm tay có hạn chế là khách hàng phải lưu ký số tiền trên séc vào ngân hàng, khi thanh toán người cầm séc phảI đến ngân hàng để làm thủ tục.
2.3. Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu:
Tình hình thanh toán bằng uỷ nhiệm thu ở Ngân hàng Công thương Đống Đa được áp dụng để thanh toán tiền cung ứng lao vụ (tiền điện thoại, tiền điện) và một vài đơn vị áp dụng để đòi tiền hàng. Theo số liệu bảng 2 cho thấy:
6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán chỉ chiếm tỷ trọng 0,5% nhưng về số món lại chiếm tỷ trọng cao hơn 8,4% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt, điều này phản ánh thể thức thanh toán này về số món thì nhiều nhưng giá trị tiền nhỏ. Nó chỉ dùng thanh toán cho các khoản tiền có tính chất định kỳ thường xuyên như tiền điện, nước, điện thoại của các tổ chức kinh tế, cá nhân.
6 tháng đầu năm 1999 doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm thu là 23.329 Triệu đồng, chiếm tỷ trọng 0,4% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Đến 6 tháng đầu năm 2000 doanh số thanh toán bằng uỷ nhiệm thu lên tới
28.483 Triệu đồng và chiếm tỷ trọng 0,5% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Qua số liệu thể hiện thể thức thanh toán bằng uỷ nhiệm thu tại Ngân hàng Công thương Đống Đa đã có chiều hướng gia tăng nhưng vẫn chậm. Hiện tượng thanh toán bằng uỷ nhiệm thu ít được khách hàng ưa dùng là do xuất phát từ nhược điểm của hình thức thanh toán này.
Uỷ nhiệm thu được sử dụng để thu tiền hàng hoá và dịch vụ đã cung ứng do đó thường gây thiệt hại cho người bán. Nếu uỷ nhiệm thu dùng để đòi tiền đơn vị có tài khoản ở cùng một ngân hàng thì thủ tục khá đơn giản, khách hàng chỉ cần nộp uỷ
nhiệm thu kèm hoá đơn gần như là có tiền ngay. Trường hợp uỷ nhiệm thu đòi tiền đơn vị có tài khoản mở ở ngân hàng khác, bên bán phải chờ một thời gian để ngân hàng gửi uỷ nhiệm thu sang ngân hàng phục vụ bên mua để ghi “nợ” trước. Sau khi uỷ nhiệm thu quay về, ngân hàng mới ghi “có” tài khoản đơn vị bán. Do khả năng chiếm dụng vốn như vậy, người bán thường rất ngại sử dụng hình thức này. Ngoài ra nếu số dư của đơn vị mua không đủ tiền gây chậm trễ cho đơn vị bán hoặc gây thiệt hại cho bên mua nếu nhờ thu đơn vị lập nhầm số tiền, sai đơn vị....
Tuy ngân hàng có áp dụng biện pháp xử phạt trong trường hợp số dư của đơn vị không đủ tiền bằng cách tính phạt chậm trả theo chế độ quy định nhưng người bán hoàn toàn không muốn điều đó xảy ra vì sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính của họ. Trong cơ chế thị trường, các đơn vị kinh tế phải tính toán sát sao các khoản thu nhập về tài chính của mình, việc để cho bên mua chiếm dụng vốn trong thời gian dài là không thể chấp nhận được. Vì vậy hiện nay hình thức này ít được sử dụng, mà người ta dùng nhiều hình thức khác mang lại hiệu quả cao hơn như: uỷ nhiệm chi, ngân phiếu thanh toán...
2.4. Thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán:
Từ tháng 11/1992 ngân hàng Nhà nước đã phát hành ngân phiếu thanh toán vào lưu thông. Ngân phiếu thanh toán là phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt do Nhà nước độc quyền phát hành, được lưu hành trong cả nước, có mệnh giá và thời hạn lưu hành in sẵn trên từng tờ. Qua số liệu bảng 2 thể hiện thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán trong thời gian qua như sau:
6 tháng đầu năm 1999, ngân phiếu thanh toán chiếm tỷ trọng về số món là 15,3% trong tổng số món và doanh số chiếm 10,5% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt.
Sang đến 6 tháng đầu năm 2000 thanh toán bằng ngân phiếu thanh toán có chiều hướng giảm, cụ thể: Tỷ trọng về số món chiếm 8,6% trong tổng số món và doanh số chiếm 4,7% trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Sở dĩ thanh toán